TÌM HIỂU SÁCH GIÁO LÝ

HỘI THÁNH CÔNG GIÁO

 ĐHY Christoph Schönborn


Xem tiếp phần   I,      II,      IIIa,      IIIb,   

book

Phần IIIa: ĐỜI SỐNG MỚI TRONG ĐỨC KITÔ

 

MỤC LỤC

 

Trở lại đầu bài

Bài 1. HỠI KITÔ HỮU, HÃY NHẬN BIẾT PHẨM GIÁ CỦA BẠN

Bài 2. NỀN TẢNG

Bài 3. MỤC ĐÍCH

Bài 4. TỰ DO

Bài 5. HÀNH VI NHÂN LINH

Bài 6. CÁC ĐAM MÊ

Bài 8. NHÂN ĐỨC

Bài 9. KHÔN NGOAN

Bài 10. CÔNG BẰNG

Bài 11. CAN ĐẢM

Bài 12. TIẾT ĐỘ

Bài 13. CÁC NHÂN ĐỨC TỰ NHIÊN VÀ CÁC NHÂN ĐỨC SIÊU NHIÊN

Bài 14. ĐỨC TIN

Bài 15. ĐỨC CẬY

Bài 16. ĐỨC MẾN

Bài 17. CÁC HỒNG ÂN CỦA CHÚA THÁNH THẦN

Bài 18. Tội là gì?

Bài 19. Tội nặng - Tội nhẹ

Bài 20. CỘNG ĐỒNG

Bài 21. Quyền Bính

Bài 22. Công Ích

Bài 23. Bình đẳng và Đa dạng

Bài 24. Lề Luật

Bài 25. Ân Sủng

Bài 26. CÔNG TRẠNG

Bài 27. Được kêu gọi nên thánh

Bài 28. HUẤN QUYỀN VÀ LUÂN LÝ

 

“Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được sống đời đời?” Đứng trước câu hỏi này của người thanh niên giàu có, Đức Giêsu đã đưa ra câu trả lời rõ ràng, cô đọng: “Nếu anh muốn vào cõi sống thì hãy giữ các điều răn” (Mt 19,16-17).

Kể từ ngày Thầy Giêsu chỉ cho nhân loại thấy con đường sự sống, biết bao người đã đem giáo huấn của Ngài ra thực hành và cảm nghiệm rằng Đức Giêsu Kitô thật sự là “đường, sự thật và sự sống” (Ga 14,6).

Luân lý Kitô giáo không phải là một tập hợp trừu tượng những lề luật, nhưng đúng hơn là bước vào mối quan hệ với Đức Kitô, noi gương Đức Kitô. Do đó những mô hình và mẫu mực của luân lý chính là các thánh, những người mà trong cuộc đời họ, con đường của Đức Giêsu bừng sáng và được cụ thể hóa cách đặc biệt. Đời sống các thánh là chứng tá hùng hồn về tính nhân văn và vẻ đẹp của luân lý Kitô giáo. Những mẫu gương đó không phải là xa vời và không thể vươn tới, và sự thánh thiện là nẻo đường và mục đích dành cho hết mọi người, đây chính là một trong những chủ đề lớn của Công đồng Vatican II.

Ước mong 52 bài suy niệm (cho 52 tuần của Năm Phụng Vụ 2015) thúc đẩy chúng ta bước theo Thầy Giêsu sát hơn, để “được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).

Bài 1. HỠI KITÔ HỮU, HÃY NHẬN BIẾT PHẨM GIÁ CỦA BẠN

Phần thứ ba của Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (GLHTCG) bàn về luân lý Kitô giáo. Ngày nay công luận thường gắn kết từ ngữ “luân lý Kitô giáo” với những chuyện bị cho là lỗi thời, cổ giả, chật hẹp, thiếu thực tế, vô bổ. Cách riêng là những cấm đoán liên quan đến điều răn thứ sáu. Những người rời bỏ Giáo hội thường viện dẫn lý do là không thể chấp nhận những ý niệm trong luân lý Kitô giáo. Đặc biệt trong số các bạn trẻ, nhiều người coi thường nền luân lý này, hoặc đúng hơn, cái mà họ tưởng là luân lý Kitô giáo.

Vậy phải chăng luân lý Kitô giáo là cái người ta vẫn nghe qua các phương tiện truyền thông và công luận? Điều được gọi là “luật sống” mà Đức Kitô ban bố cho các môn đệ và chúng ta được mời gọi sống theo đó, điều đó thật sự là gì? Nhiều bậc phụ huynh tự đặt ra câu hỏi này khi cố gắng giới thiệu cho con cái mình đời sống phù hợp với đức tin. Với tất cả những ai tuyên xưng đức tin, câu hỏi khẩn thiết này lại được đặt ra lúc này lúc khác: Sống đời sống đức tin, đời sống Kitô ngày nay thật sự là gì?

Sách Giáo Lý chỉ cung cấp câu trả lời gián tiếp. Mục đích chính của Sách Giáo Lý là trình bày những giáo huấn của đức tin Kitô giáo cách hệ thống (số 18), nhờ đó giúp đào sâu sự hiểu biết đức tin (số 23). Hàm chứa trong giáo huấn này là sự hiểu biết chính xác hơn về luân lý Kitô giáo, nền luân lý vốn thường bị hiểu lầm và vì thế bị gạt bỏ chỉ vì thiếu hiểu biết. Sự hiểu biết tốt hơn và sâu hơn có thể giúp cho người ta đón nhận lối sống Kitô và trân trọng hơn.

Tuy nhiên trước khi bàn đến lối sống này, cần phải thấy được điều này: Luân lý Kitô giáo được khám phá trước hết không phải bằng kiến thức và lý trí, cho dù điều này quan trọng, nhưng chủ yếu là qua việc bước theo Đức Kitô cách cụ thể. Những ai đặt chân trên “con đường của Đức Kitô” (GLHTCG số 1696), những ai nhờ ân sủng cố gắng sống đời sống “xứng đáng với Tin Mừng của Đức Kitô” (số 1692), những người đó sẽ khám phá ý nghĩa những điều răn của Thiên Chúa cách hoàn toàn mới mẻ, tức là những nẻo đường dẫn đến sự sống và cuộc đời hạnh phúc.

Bài 2. NỀN TẢNG

Hỡi Kitô hữu, hãy nhận biết phẩm giá của bạn”. Sách Giáo Lý bắt đầu phần thứ ba về luân lý Kitô giáo bằng lời hiệu triệu của Thánh Giáo hoàng Lêô Cả (440-461), lời hiệu triệu có thể tóm tắt trong một câu khác, cũng là của Thánh Lêô Cả: Đừng sống dưới mức phẩm giá của mình.

Phẩm giá con người là từ chìa khóa trong những thảo luận ngày nay về luân lý, đạo đức, và triết học luân lý. Nhân quyền hoàn toàn và tuyệt đối dựa vào sự tôn trọng phẩm giá. Vậy, phẩm giá con người, cách riêng phẩm giá Kitô hữu, hệ tại ở cái gì?

Câu trả lời tùy thuộc vào hình ảnh, quan niệm của người ta về con người. Trả lời cho câu hỏi “Con người là ai?” sẽ xác định tầm nhìn về phẩm giá, cũng như cái làm nên luân lý, đạo đức. Do đó câu hỏi về hình ảnh con người là câu hỏi nền tảng của luân lý.

“Nhưng con người là gì? Con người đã và đang còn đưa ra nhiều quan niệm về chính mình, những quan niệm khác nhau và đôi khi trái nghịch nhau. Thông thường, con người hoặc tự tôn vinh mình như một chuẩn mực tuyệt đối hoặc tự khinh bỉ đến độ tuyệt vọng, từ đó dẫn đến hoài nghi và lo lắng”. Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay, một văn kiện quan trọng của Công đồng về luân lý, nói như thế (MV số 12).

Văn kiện cho thấy sự khác biệt rất lớn trong cách nhìn về con người. Hoặc con người được nhìn theo góc độ thuần túy duy vật, chỉ đơn thuần là một sản phẩm của tiến hóa, của tiến trình vật chất trong vũ trụ. Hoặc con người được nhìn cách bí nhiệm, theo nghĩa của phái Ngộ đạo đang phổ biến ngày nay, được coi như “một phần của Thiên Chúa”, “một cái Ngã thần thánh”. Hoặc con người được nhìn theo ý nghĩa của Kinh Thánh và mặc khải, được trân trọng như thụ tạo của Thiên Chúa, “thụ tạo duy nhất trên trái đất được Thiên Chúa tạo dựng vì chính nó” (MV số 24).

Thế nhưng làm sao chúng ta biết được con người thật sự là gì? Một đàng chúng ta tin rằng lý trí con người có thể khám phá câu trả lời nào đó, đàng khác, ánh sáng của lý trí không đủ. Chỉ có ánh sáng của mặc khải mới đưa ra câu trả lời vững chắc. Mặc khải cho chúng ta biết về con người vì mặc khải nhìn con người như một thành phần trong kế hoạch của Thiên Chúa.

Khẳng định nền tảng xuất hiện ngay ở trang đầu của Sách Thánh: “Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh của chúng ta, như họa ảnh của chúng ta” (St 1,26). Khẳng định này dẫn đến những hệ quả vô cùng lớn lao. Đây chính là nền tảng của phẩm giá con người. “Theo hình ảnh của Thiên Chúa” có nghĩa gì?

Trước hết, mỗi người đều có phẩm giá độc đáo, không thể hủy diệt, được Thiên Chúa tạo dựng, “có thể nhận biết và yêu mến Đấng Tạo Hóa”, do đó “có khả năng để hiểu biết trật tự muôn loài do Đấng Tạo Hóa thiết lập” (GLHTCG 1704). Sự biểu lộ đặc biệt hình ảnh thần linh nơi con người là ý chí tự do (số 1705). Tuy nhiên “hình ảnh của Thiên Chúa” cũng có nghĩa là con người không có tất cả những ưu điểm trên (lý trí, ý chí, tự do) do chính nó, con người không hoàn toàn tự lập và không thể là lề luật cho chính mình. Sự lệ thuộc vào Thiên Chúa không làm cho con người mất tự do, nhưng đúng hơn, chính nhờ đó mà con người được tự do đích thực. Chúng ta đón nhận mọi sự từ Thiên Chúa: tự do, năng lực, và chính hiện hữu của mình.

Là “hình ảnh của Thiên Chúa” còn có nghĩa: cũng như Thiên Chúa không đơn độc nhưng là sự hiệp nhất của Ba Ngôi, thì con người cũng không đơn độc, con người được tạo dựng có nam có nữ, như những hữu thể sống hiệp thông (GLHTCG 1702).

Cuối cùng, nền tảng trong cách nhìn của Kitô giáo về con người còn là sự nhận biết về thảm kịch của tội, của sự dữ, đã có mặt “ngay từ đầu lịch sử” (số 1707). Vì thế, con đường mà con người bước đi là cả một cuộc chiến suốt đời giữa cái thiện và cái ác, làm điều thiện và tránh điều ác. Cũng vì thế, chiến đấu nhằm hướng tới một cuộc sống xứng với phẩm giá là đề tài lớn của Kitô giáo về cuộc đời.

Bài 3. MỤC ĐÍCH

Có bảng quảng cáo xe hơi viết: “Đường đi là mục đích”. Dĩ nhiên là không đúng. Người lái xe mà không có mục đích thì không biết đi đường nào nhưng chỉ chạy lòng vòng. Chỉ có thể nói về “đường đi” đúng nghĩa khi có một định hướng rõ ràng, nghĩa là có mục đích.

Vậy, mục đích đời người là gì? Câu hỏi thật quan trọng, chẳng khác gì câu hỏi về nền tảng đã trình bày trong bài trước. Mục đích xác định đường đi. Người ta chọn đường đi để hướng đến mục đích, nhanh nhất và an toàn nhất.

Thế nhưng liệu có một mục đích chung cho tất cả mọi người không? Lại chẳng phải mỗi người đều có mục đích riêng của họ và cố gắng vươn tới hay sao? Đúng vậy, nhưng có một mục đích chung mà mọi người đều hướng tới: Hạnh Phúc. Thánh Augustinô nói: “Không phải một mình tôi hoặc một số người gần gũi tôi, nhưng tất cả chúng ta đều muốn hạnh phúc” (Tự Thuật, 10,21). Người ta có thể tìm kiếm hạnh phúc bằng nhiều cách, nơi nhiều việc, nhưng đều là kiếm tìm hạnh phúc.

Chính vì thế, “luân lý” từng được quan niệm như học thuyết về hạnh phúc đích thực, như nẻo đường dẫn đến đời sống hạnh phúc. Khao khát hạnh phúc là ước vọng bẩm sinh mà Thiên Chúa đã đặt vào trái tim con người (GLHTCG 1718). Thiên Chúa là Đấng hạnh phúc sung mãn, và khi tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài, Thiên Chúa muốn cho con người được chia sẻ hạnh phúc sung mãn của Ngài (số 1). Vì thế, những điều răn của Thiên Chúa không có mặt để hủy diệt niềm vui cuộc sống, nhưng là để chỉ vẽ nẻo đường đi về hạnh phúc.

Ngày nay người ta có thể đưa ra nhiều phê phán đối với quan niệm này. Theo kinh nghiệm cụ thể, chẳng phải là chúng ta phải làm nhiều việc đối nghịch với sở thích của mình sao? Từ hôn nhân, gia đình, đến những bổn phận nghề nghiệp, có nhiều thứ chẳng liên hệ gì đến ước mong riêng tư của chúng ta. Khi còn nhỏ cũng như đến tuổi thanh niên, lúc nào cũng nghe nói đến những cấm đoán, cấm làm cái này, cấm làm cái kia. Mà kể cả khi chúng ta làm điều tốt cho người khác đi nữa, chẳng phải là mình làm để cho bản thân hạnh phúc chứ có phải làm vì ích lợi của người khác đâu! Nếu thế, phải chăng tìm kiếm hạnh phúc chỉ là một hình thái của ích kỷ? Làm việc gì đó không phải vì tự thân việc đó là tốt, nhưng chỉ vì nó đem lại cho mình hạnh phúc? Các triết gia về đạo đức học vẫn cứ tranh luận mãi về chuyện này.

Quay về với thực tế, cuộc sống dạy chúng ta điều này: Không phải bất cứ điều gì chúng ta thích đều dẫn đến hạnh phúc (thử nhìn kỹ chuyện nghiện rượu hoặc ma túy xem). Ngược lại, không phải tất cả những gì chúng ta không thích đều dẫn đến bất hạnh (trẻ nhỏ có thích đến trường đâu).

Bài Giảng Trên Núi của Đức Giêsu là bản chỉ đường vĩ đại cho đời sống hạnh phúc. Tám mối phúc (Mt 5,3-12) giới thiệu những con đường làm cho con người trở thành người “được chúc phúc”, dẫn họ đến hạnh phúc thật chứ không chỉ là niềm vui thoáng qua. Những hoàn cảnh và thái độ vốn bị coi là bất hạnh nếu đứng từ quan điểm thế gian, lại được Đức Giêsu công bố là nẻo đường hạnh phúc: tinh thần nghèo khó, hiền hòa, xây dựng hòa bình, chịu bách hại vì lẽ công chính, chịu sỉ nhục vì Đức Giêsu.

Hạnh phúc mà mọi người đều mong muốn đã được cụ thể hóa nơi một dung mạo và mang một tên gọi: Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, Đấng “đã biểu lộ cho con người cách rất đầy đủ về chính họ và họ thấy ơn gọi rất cao cả của họ” (GLHTCG 1710). Kinh nghiệm sống của biết bao Kitô hữu làm chứng rằng sống theo Bài Giảng Trên Núi, dù cuộc sống vẫn đầy khổ đau và ưu phiền, sẽ dẫn đến hạnh phúc sung mãn và vĩnh cửu.

Bài 4. TỰ DO

Thật quý giá và tuyệt vời biết bao hai tiếng “tự do”. Lại càng thấm thía hơn khi bị mất tự do. Tôi sẽ không bao giờ quên cuộc gặp gỡ một gia đình Việt Nam di tản. Là “thuyền nhân”, họ phải rời bỏ quê hương, đối diện với biết bao đe dọa: cướp biển, bão tố, công an biên phòng, đói khát … tất cả chỉ để được một điều duy nhất: tự do.

Được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, đặc tính lớn nhất nơi con người là tự do. Tự do của con người phản ánh tự do của Thiên Chúa (GLHTCG 1730). Nhưng tự do nào? Sách Giáo Lý viết: “Tự do là khả năng bắt nguồn từ lý trí và ý chí, để hành động hay không hành động, làm việc này hoặc làm việc khác, và như vậy, tự mình làm những hành động có ý thức trách nhiệm” (số 1731).

Khi nào khả năng này vắng mặt hoặc chỉ có mặt cách giới hạn, thì cũng không có trách nhiệm luân lý kèm theo. Một đứa bé hoặc một người bị tâm thần không hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành vi của họ, vì họ không thể làm chủ hành vi của mình một cách có trách nhiệm (số 1734). Những hoàn cảnh bên trong và bên ngoài có thể làm giảm thiểu tự do (ví dụ, sự sợ hãi, áp lực xã hội, thiếu hiểu biết). Do đó, việc quy tội cũng giảm đi (số 1735).

Vậy, tự do hệ tại ở cái gì? Có hai sự hiểu lầm cần được làm sáng tỏ. Thứ nhất, chúng ta thường tin rằng càng có nhiều khả thể để lựa chọn thì càng có tự do hơn. Thật ra, không hẳn là thế. Tự do được thể hiện theo mức độ tôi chọn làm điều đúng đắn, điều tốt ở chính nó và tốt cho tôi. Một bạn trẻ quyết định bỏ chuyến đi nghỉ hè đầy hấp dẫn, thay vào đó tham gia một trại hè để giúp người khuyết tật. Nhìn bên ngoài, xem ra anh ta bị mất tự do, nhưng thật ra anh đã thể hiện sự tự do đích thực khi tự nguyện dấn thân làm điều tốt. Tự do được lớn lên và phát triển qua những quyết định làm điều tốt (số 1733).

Trong thời đại chúng ta, có sự hiểu lầm sâu xa về tự do khi tin rằng tự do hệ tại ở chỗ tự mình quyết định mọi sự, không bị giới hạn, vô điều kiện, ngoại trừ những giới hạn từ bên ngoài do luật pháp (số 1740). Trong thực tế, phải hiểu ngược lại: chúng ta càng làm điều tốt và thực hành các nhân đức thì càng trở thành những con người tự do. Tất cả mọi người đều biết rằng những mối nguy hiểm đe dọa tự do không chỉ đến từ bên ngoài, nhưng từ bên trong chính bản thân mình. Thật dễ dàng để lạm dụng tự do, lấy tự do ra để biện hộ cho sự ích kỷ, thiếu bác ái, sống buông thả.

Sự hiểu lầm thứ hai là: đúng là chúng ta được tự do để chọn điều tốt hay điều xấu, nhưng việc chọn lựa này không phải là không có những hậu quả cho tự do. Người nghiện rượu không thật sự tự do khi chọn lựa, sự nghiện ngập đã lôi kéo anh ta đến điều mà anh cũng nhìn nhận là có hại. Nếu anh ta cương quyết xa tránh rượu chè thì đó chính là sự giải phóng (làm cho anh thành tự do). Anh trở thành con người tự do qua quyết tâm làm điều tốt cho chính mình.

Tất cả chúng ta đều phải chiến đấu để vươn tới sự tự do đích thực. Chúng ta kinh nghiệm nơi mình sự hướng chiều về điều xấu: “Tôi không làm điều tốt tôi muốn, nhưng lại làm điều xấu tôi không muốn” (Rm 7,19). Vì thế tất cả chúng ta – không trừ ai – cần được giải thoát. Con đường theo gương Đức Kitô là đường dẫn đến sự giải thoát đích thực (số 1742). Chỉ khi nào chúng ta tận hiến toàn thể con người của mình – lý trí, ý chí, mọi năng lực – cho Thiên Chúa và tha nhân trong đức ái, thì chúng ta mới thật sự tự do.

Bài 5. HÀNH VI NHÂN LINH

Không phải tất cả những gì chúng ta làm đều được gọi là hành vi “nhân linh”. Chẳng hạn, khi đối diện với những bất công, độc ác, gian giảo, chúng ta gọi là “phi nhân”. Như thế, con người đã có một vài ý niệm nào đó về cái gọi là nhân linh và phi nhân. Do đó, để phán đoán xem hành động của mình là đúng hay sai về mặt luân lý, điều quan trọng là phải xem nó có phải là hành vi nhân linh không, nghĩa là nó nâng cao hay ngược lại, nó phá hủy và hạ giá nhân tính nơi chúng ta. Nhưng làm thế nào để biết “nhân linh” là gì?

Trước khi bàn đến vấn đề này, cần có sự phân biệt: không phải tất cả những gì chúng ta làm đều nhất thiết là “hành vi nhân linh”. Có những hành động chẳng tốt cũng chẳng xấu vì nó không hoàn toàn tùy thuộc ý muốn của chúng ta, không nằm trong khả năng của chúng ta. Ví dụ, tiến trình sinh hóa trong cơ thể con người như tiêu hóa hay nhịp tim, hoặc những phản ứng tự nhiên như sợ hãi. Chúng ta chỉ có thể tác động trên tiến trình tự nhiên này ở mức độ nào đó, chẳng hạn phải chịu trách nhiệm về bệnh tim của mình do lối sống thiếu lành mạnh, thế nhưng quả tim (về mặt thể lý) không hoàn toàn tùy thuộc sự điều khiển của ý chí, nó là hoạt động tự nhiên, tự động.

Thánh Tôma Aquinô phân biệt “hành động của con người” và “hành vi nhân linh”. Chỉ có hành vi nhân linh mới được lượng giá về mặt luân lý, nghĩa là nó tốt hay xấu, vì con người thực hiện những hành vi đó cách tự do và ý thức (GLHTCG 1749).

Vậy, tính chất luân lý của một hành vi nhân linh hệ tại điều gì? Giáo huấn luân lý của Kitô giáo phân biệt 3 yếu tố: một là chính hành động, hai là mục đích hay ý hướng của hành động, ba là những hoàn cảnh chung quanh hành động (số 1750).

Ngày nay nhiều người cho rằng ý hướng là yếu tố quyết định. Điều này cũng đúng. Một người cầu nguyện chỉ nhắm mục đích “cho thiên hạ thấy mà khen” thì người đó đã làm biến chất một công việc vốn ở tự nó là tốt. Dù vậy chăng nữa, yếu tố phải quan tâm đầu tiên là chính hành động chứ không phải ý hướng. Cầu nguyện “tự nó” là tốt; giết người “tự nó” là xấu. Làm thế nào để biết một hành động “tự nó” là tốt hay xấu? Lý trí và lương tâm mách bảo chúng ta nếu biết lắng nghe (số 1751). Mười Điều Răn chỉ cho chúng ta biết đâu là những hành động xấu, do đó không thể nào trở thành tốt dù có ý hướng tốt hoặc ở trong hoàn cảnh nào chăng nữa. Những hành động đó là phủ nhận, xúc phạm Thiên Chúa, giết người, trộm cắp, ngoại tình, gian dối. Những hành động đó không thể được gọi là tốt dù có nhắm đến mục đích tốt nào đó (mục đích không biện minh cho phương tiện). Dĩ nhiên có những áp lực có thể làm giảm nhẹ trách nhiệm, nhưng vẫn không thể làm cho một hành động xấu thành tốt được (số 1754).

Cuối cùng, cái gì làm cho hành động của chúng ta thực sự là “người” và “nên người” hơn? Thưa, quả tim thanh khiết, nghĩa là ý chí ngay lành (Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch). Điều chính yếu là làm những gì tốt và đúng với tâm hồn ngay chính. Chúng ta biết quá rõ là có những con sâu (ví dụ, sự háo danh) có thể ẩn núp trong những hành động của mình và làm biến chất những việc tốt lành của mình. Vì thế, phải thường xuyên vun đắp một tâm hồn ngay thẳng.

Bài 6. CÁC ĐAM MÊ

Các đam mê thì có liên hệ gì đến luân lý? Chẳng phải đam mê thường đối nghịch, hoặc ít ra, ngăn cản đời sống đạo đức hay sao? Chúng ta lại chẳng phải chiến đấu chống lại các đam mê để trở nên những con người chân chính và đáng kính trọng hay sao? Quả thật, cách hiểu như trên về đam mê là cách hiểu khá phổ biến, không những nơi quần chúng mà ngay cả trong giới triết học và thần học.

Thật đáng ngạc nhiên khi các triết gia thời Trung Cổ lại suy nghĩ hoàn toàn khác về vấn đề này. Thánh Tôma Aquinô cho rằng không thể có luân lý nếu không có đam mê. Đời sống tốt hàm nghĩa một đời sống biết điều chỉnh các đam mê cho đúng mức.

Phải hiểu “đam mê” như thế nào? Các đam mê là “những yếu tố tự nhiên trong tâm lý con người. Chúng tạo thành nơi chuyển tiếp và bảo đảm mối liên kết giữa đời sống cảm giác và đời sống tinh thần” (GLHTCG 1764). Đời sống linh hồn chúng ta không chỉ hệ tại ở lý trí và ý chí, mà còn bao hàm những “năng lực của linh hồn” tác động cả đến giác quan. Đức Giêsu coi trái tim con người như nguồn mạch từ đó phát xuất các chuyển biến của đam mê (x. Mc 7,21).

Các đam mê, tự chúng, thì không tốt cũng không xấu. Chúng được đánh giá về mặt luân lý tùy theo mức độ chúng lệ thuộc thật sự vào lý trí hoặc ý chí. Muốn đạt tới sự hoàn hảo của điều thiện về mặt luân lý hay nhân linh, các đam mê phải được điều khiển bởi lý trí.

Như vậy, có thể rút ra một kết luận khiến nhiều người ngạc nhiên: Không thể có luân lý tính nếu không có sự tham gia của các đam mê, dĩ nhiên là phải có trật tự. Thật vậy, phần lớn công việc huấn luyện đạo đức, tức là đạt tới sự trưởng thành luân lý, hệ tại ở việc huấn luyện các đam mê cách đúng đắn, để định hướng, phát triển và ứng dụng. Chúng ta biết quá rõ rằng nếu không chế ngự và điều chỉnh được những đam mê, thì chúng có thể gây ra những hậu quả xấu xa thế nào. Chỉ những ai biết điều hướng đam mê theo sự thiện mới được gọi là người đạt được sự trưởng thành về luân lý.

Điều này được thể hiện rõ nét trong đời sống các thánh. Chắc chắn thánh Têrêxa Avila phải là người có đam mê mãnh liệt, thứ năng lực sống động khiến ngài có thể vượt qua những nghịch cảnh và thực hiện những công trình lớn cách can đảm và mạnh mẽ. Thánh nhân không thể thành lập nhiều tu viện như thế nếu, thay vì kiểm soát các đam mê, ngài lại để nó khơi ngòi cho sự giận dữ, nóng nẩy, buồn phiền. Kiên trì trong ý hướng tốt lành, kiên nhẫn giữa nghịch cảnh, mạnh mẽ trong thử thách, đó là những dấu hiệu cho thấy đam mê được chế ngự và điều chỉnh để hướng đến sự thiện.

Chúng ta được kêu gọi yêu mến Chúa không chỉ hết lòng, hết trí khôn, mà còn hết linh hồn, hết sức lực nữa. Con đường “thơ ấu” của Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu là mái trường dạy chúng ta đem tất cả ý muốn và đam mê, tất cả ước ao và khát vọng của mình vào trong tình yêu Chúa và tha nhân, và hướng đến mục đích này trong mọi sự. Các thánh là những con người đầy đam mê, huy động toàn bộ “thân xác và linh hồn” hướng tới điều thiện (số 1770). “Cả tấm thân con cùng là tấc dạ, những hướng lên Chúa Trời hằng sống mà hớn hở reo mừng” (Tv 84,3).

Bài 8. NHÂN ĐỨC

Từ bài đầu cho đến nay, chúng ta đã tự hỏi xem cái gì làm cho một việc, một hành động nhân linh thành tốt, và chúng ta đã bàn đến những nền tảng liên quan đến luân lý tính nơi con người: tự do, lương tâm, quyết định đúng đắn, trật tự những đam mê. Tuy nhiên vẫn còn một nền tảng nữa phải quan tâm. Cái gì làm cho chúng ta có thể gọi là tốt, không những một hành vi riêng lẻ nào đó nhưng là chính con người? Điều gì làm nên một người tốt?

Liệu có người tốt thật không? Chúa Giêsu đã chẳng nói rằng: “Nếu các ngươi, vốn là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái những của tốt lành …”sao? (Lc 11,13). Và “Tại sao anh gọi tôi là tốt lành? Không ai tốt lành cả, ngoại trừ Thiên Chúa” (Lc 18,19). Thêm nữa, “Nếu chúng ta nói rằng mình không có tội, thì chúng ta lừa dối chính mình” (1Ga 1,8).

Dĩ nhiên điều đó không có nghĩa là nơi con người, không có chút gì là tốt, mà toàn cái xấu. Chính Chúa Giêsu gọi Nathanael là người “không có gì gian dối” (Ga 1,47). Thánh Kinh mô tả nhiều người là “công chính”, chẳng hạn, thánh Giuse (Mt 1,19), ông Zacaria và bà Êlisabét (Lc 1,6), và cụ Simêon (Lc 2,28). Nói như thế không có nghĩa là các ngài hoàn toàn không có chút lỗi lầm nào, nhưng muốn nói các ngài không gian dối, không có những thói làm cho con người thành xấu xa.

Đây chính là một phần trong cách hiểu của Kitô giáo về con người, về đạo đức: Chỉ một mình Thiên Chúa được gọi là “tốt lành” theo nghĩa tuyệt đối, nhưng cũng không vì thế mà làm người là xấu! Hiện hữu, ở tự nó, đã là điều tốt lành. Đó là xác tín nền tảng của đức tin Kitô giáo vào Thiên Chúa Tạo Hóa, vào sự tốt lành của công trình tạo dựng (GLHTCG số 299).

Trong trường hợp con người, dĩ nhiên sự “tốt lành” không chỉ được đảm bảo đơn thuần bằng việc chúng ta dự phần vào sự tốt lành nơi Thiên Chúa, nhưng chúng ta còn phải đem ra thực hành trong đời sống. Cái gì làm cho một người thành người tốt? Không chỉ ở sự kiện là con người đó hiện hữu, mặc dù mọi thụ tạo, xét như được Thiên Chúa tạo dựng, đều có sự tốt lành nội tại (số 339).

Sự tốt lành nơi con người còn liên hệ đến việc người đó vun trồng cái tốt thành điều vững chắc và bền lâu. Đây chính là điều mà truyền thống Kitô giáo gọi là “nhân đức”.

Ngày nay, nói như thi sĩ Paul Valéry, “Từ ‘nhân đức’ chỉ còn gặp được trong sách Giáo Lý và các vở kịch”. Lại càng thêm lý do cho chúng ta khám phá lại ý nghĩa cao cả và sâu xa của từ ngữ này.

Thánh Tôma định nghĩa rất đơn giản: nhân đức là “cái làm cho một người thành tốt”. Nhân đức khiến cho một người không những làm điều này điều kia tốt, nhưng còn là nên người tốt. Nhân đức là những thái độ vững chắc, những xu hướng kiên trì, trở nên như bản tính thứ hai nơi người tốt (số 1804). Có được những thái độ và xu hướng này là nhờ tập luyện hoặc đón nhận như ân sủng. Những nhân đức nhân bản và Kitô giáo, gồm 4 nhân đức trụ và 3 nhân đức đối thần, là những đề tài sẽ được bàn đến trong các bài kế tiếp.

Bài 9. KHÔN NGOAN

Khôn ngoan được nhắc đến đầu tiên trong các nhân đức. Nhưng lại một lần nữa, thật khó cho chúng ta ngày nay khi bàn đến từ ngữ cũng như nội dung các nhân đức. “Khôn ngoan” thường bị hiểu theo nghĩa tiêu cực, là cẩn trọng quá đáng, có khi còn bị đồng hóa với nhút nhát, sợ sệt, kể cả tráo trở, lừa đảo. Như thế, phải chăng tốt hơn là đừng bàn đến nữa? Ngược lại, chính vì thế mà cần tìm hiểu để nắm được ý nghĩa đích thực của nhân đức này.

Các nhân đức là những “năng lực thực hiện”. Một nghệ nhân làm chủ được cây cọ trên tay hoặc một nghệ sĩ chơi piano tuyệt hảo là những người có “năng lực thực hiện”, nghĩa là thể hiện kỹ năng của họ cách khéo léo, nhẹ nhàng, dù họ phải tập luyện nhiều mới đạt được. Các nhân đức là những năng lực giúp chúng ta mau mắn làm điều đúng, đến độ trở thành tự nhiên và mang lại niềm vui (GLHTCG 1804).

Khôn ngoan là năng lực nắm bắt thực tại cách đúng đắn rồi đưa ra quyết định và thực hiện cách thích hợp. Cả hai khía cạnh này đều là thành phần của nhân đức khôn ngoan. Để có thể hành động cách đúng đắn về mặt luân lý, chúng ta phải nắm bắt thực tại cách đúng đắn.

Ngày nay người ta thường trình bày luân lý khởi đi từ những bó buộc luân lý, từ những điều răn, từ bổn phận. Cách trình bày như thế có thể tách biệt những bó buộc luân lý với chính thực tại, nghĩa là tôi phải làm chu toàn bổn phận vì đó là bổn phận, chứ không phải vì đó là cách hành xử thích hợp với chính thực tại. Luân lý kinh điển của Kitô giáo cống hiến một cách nhìn khác: Để làm điều tốt, chúng ta phải nhận biết thực tại.

Người khôn ngoan trước hết là người nắm bắt thực tại cách chính xác. Do đó, một thành phần của khôn ngoan là việc tìm lời khuyên, nghĩa là lắng nghe những người có hiểu biết và kinh nghiệm. Mở ra với thái độ sẵn sàng lắng nghe – nhất là trân trọng Thiên Chúa và Lời của Ngài – chính là thành tố của khôn ngoan.

Khía cạnh thứ hai của khôn ngoan là đáp ứng thực tại cách đúng đắn và thích hợp. Điều này đòi hỏi trước hết sự xem xét cẩn trọng, suy nghĩ kỹ lưỡng và bàn hỏi với những người có kinh nghiệm. Cũng cần có khả năng phân biệt ý kiến tốt với ý kiến xấu. Do đó, khôn ngoan song hành với lương tâm (số 1806).

Bước cuối cùng và rất quan trọng của khôn ngoan: sau khi đã xem xét kỹ lưỡng thực tại và những đòi hỏi của nó, người khôn ngoan đưa ra quyết định, đồng thời kiên quyết thực hiện quyết định đó bằng phương thế chính đáng. Bởi lẽ, sự khôn ngoan được thể hiện nơi hành động đúng đắn. “Xem, xét, làm”: mọi nhân đức đều đòi hỏi những bước như thế, cách riêng là nhân đức khôn ngoan. Do đó, khôn ngoan dẫn đường cho những nhân đức khác.

Bài 10. CÔNG BẰNG

Đức công bằng liên quan đến hành xử đúng đắn với tha nhân. Do đó, trong đời sống xã hội, đây là thái độ nền tảng. Công bằng là trả lại cho người lân cận những gì chúng ta mắc nợ họ (GLHTCG 1807). Vì không ai chỉ sống cho mình, nên nhân đức làm nền tảng cho đời sống chung cũng là nhân đức nền tảng. Trong giáo huấn Công giáo về các nhân đức, đức công bằng được khai triển theo 3 hướng.

Trước hết là sự công bằng giữa các cá nhân, gọi là Công bằng giao hoán. Theo đó, người chủ mắc nợ nhân viên tiền lương thích hợp, ngược lại nhân viên nợ ông chủ công việc phải làm tương xứng. Cha mẹ mắc nợ con cái sự chăm sóc và nâng đỡ, con cái nợ cha mẹ sự kính trọng; vợ chồng nợ nhau sự tôn trọng và giúp đỡ. Nói thế, phải chăng là quá tính toán, biến mọi sự thành công việc? Tình yêu, lòng thương xót, sự nhân hậu lại chẳng quan trọng hơn công bằng sao?

Dĩ nhiên khi nói đến những việc trên, cần phải nhìn trong tương quan liên vị và những bổn phận phải có đối với nhau. Đúng là công bằng không phải là tất cả. Không có tình yêu thì cuối cùng cũng chẳng có công bằng. Thế nhưng không có công bằng nền tảng thì cũng không có tình yêu.

Hình thức thứ hai của công bằng liên quan đến hành xử của xã hội đối với các cá nhân, gọi là Công bằng phân phối. Đây là nhiệm vụ riêng của chính quyền, Nhà nước, cũng như của những xã hội nhỏ hơn. Những gì cá nhân không thể làm một mình thì xã hội phải giúp đỡ. Một người đã dành cả đời làm việc cho xã hội có quyền đòi hỏi xã hội phải trợ giúp khi bị bệnh hoặc khi về già. Nếu nguồn lợi của xã hội eo hẹp thì công bằng phân phối đòi hỏi phải làm sao để những thành phần yếu trong xã hội không phải mang gánh nặng quá lớn, không thể chỉ quan tâm người mạnh mà bỏ quên kẻ yếu.

Hình thức thứ ba liên quan đến công bằng của cá nhân đối với xã hội xét như một toàn thể, gọi là Công bằng pháp lý. Mỗi người trong xã hội đều có trách nhiệm với công ích, và công ích phải được quan tâm trước những lợi ích cá nhân hoặc nhóm. Những chương trình xã hội chỉ có thể tiến hành nếu từng cá nhân đóng góp vào công ích.

Còn nhiều điều phải nói về 3 hình thức công bằng nói trên. Điều quan trọng ở đây là phải có cả 3 thứ công bằng đó, chúng ta mới có cái nhìn toàn diện về công bằng. Điều quan trọng nữa là: để có được cả 3 thứ công bằng trên, cần có những con người công chính, ngay thẳng. Xã hội và công ích chỉ phát triển nhờ những con người như thế. Chính vì thế, hình thức sâu xa nhất của đức công bằng là thái độ của chúng ta đối với Thiên Chúa: “Trả lại những gì chúng ta mắc nợ với Thiên Chúa” (x. 1807). Chúng ta mắc nợ Chúa mọi sự, cụ thể là tất cả sở hữu và hiện hữu của mình. Thật vậy, chính từ Chúa mà chúng ta có những gì đang có vì “Vương quốc Chúa vô biên, Vương quyền Người vô tận”.

Bài 11. CAN ĐẢM

Sự dữ và quyền lực sự dữ đang có mặt trong đời. Sự thiện không chiến thắng cách tự động, máy móc. Trong cuốn Thành trì của Chúa, thánh Augustinô nói rằng nhân đức can đảm là bằng chứng hiển nhiên về điều này. Không có công lý nào mà lại không đòi hỏi chấp nhận gian khổ, thù nghịch, hiểm nguy, đôi khi cả sự bách hại. Sẵn sàng đứng lên bênh vực cho những gì tốt lành, dù bị chống đối, chúng ta gọi đó là can đảm.

Quyền lực sự dữ thật đáng sợ. Âu lo và sợ hãi là những phản ứng thường tình của con người khi đối diện những gì đe dọa chúng ta. Người không biết sợ là người thiếu mất “cơ quan” cảnh báo chúng ta trước những nguy hiểm. Ai đó, vì kiêu căng hoặc ngu dốt, không nhìn thấy những nguy hiểm, thì người đó gây nguy hiểm cho chính mình và người khác cách nghiêm trọng. Do đó, liều lĩnh không phải là can đảm, đúng hơn là ngược lại. Cũng vì thế, can đảm hệ tại ở chỗ tìm kiếm liều lượng thích hợp khi đối diện với những nguy hiểm, chứ không ngạo mạn hoặc coi thường.

Mục đích chính của can đảm là “kiên trì và quyết tâm theo đuổi điều thiện giữa những khó khăn trong đời” (GLHTCG số 1808). Nói cách cụ thể là vượt qua nỗi sợ hãi trước những khó khăn cản đường sự thiện. Nỗi sợ hãi này có thể xuất hiện dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Có nỗi sợ hãi có lý do nhưng cũng có sự sợ hãi vô cớ. Nhân đức can đảm liên quan đến việc sắp xếp cho đúng trật tự, tìm xem những gì chúng ta phải sợ và những âu lo cần phải vượt qua.

Cách cụ thể, nhân đức can đảm liên quan đến những “tính toán thế gian”. Rất dễ hiểu khi một người, vì sợ mất công ăn việc làm, mà câm lặng trước sự bất công đồng nghiệp phải chịu. Trong những trường hợp như thế, chăm sóc cho gia đình và cho sự an ninh bản thân dẫn chúng ta đến những xung đột làm tâm hồn mất bình an. Trong những chế độ độc tài, những chuyện trên thường xuyên xảy ra; tuy nhiên ngay cả trong xã hội ngày nay, điều đó cũng vẫn xảy ra, dù ít bi thảm hơn. Vậy phải tìm sự quân bình ở đâu?

Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn, hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” (Mt 10,28). Chúng ta có thể mất mọi sự: sức khỏe, hạnh phúc, danh thơm tiếng tốt, tài sản. Sợ mất những điều này là chuyện thường tình của con người và là điều đúng chứ không sai; thế nhưng điều quan trọng là đừng để nỗi sợ hãi đó quyết định mọi sự. Chỉ có một điều duy nhất tuyệt đối đáng sợ, là do tội lỗi mà chúng ta đánh mất chính mình mãi mãi, bị xa cách Thiên Chúa mãi mãi. Chúng ta vẫn thầm thĩ cầu nguyện trước khi rước lễ: “Xin đừng để chúng con lìa xa Chúa bao giờ”.

Do đó, nhân đức can đảm được khơi nguồn từ niềm “kính sợ Chúa”, để không làm mất đi điều quý giá nhất trên đời là lòng yêu mến Chúa. Cũng vì thế, tử đạo được xem là sự can đảm tuyệt hảo: thà hi sinh của cải thế gian và cả mạng sống, hơn là khước từ tình yêu và sự trung thành với Thiên Chúa.

Cũng ở đây, rực sáng lên điều cốt lõi: tình yêu là thước đo mọi nhân đức.

Bài 12. TIẾT ĐỘ

Đứng hàng thứ tư trong các nhân đức trụ là đức tiết độ, trong tiếng La tinh là temperantia. Những từ temperature (thời tiết) và temperament (tính khí) đều có cùng một gốc temperare, nghĩa là sắp xếp, đưa vào trật tự, nhưng cũng có nghĩa là đặt giới hạn, điều tiết.

Mọi nhân đức đều liên quan đến trật tự và sự cân xứng. Đức khôn ngoan liên quan đến phán đoán đúng đắn về thực tại. Đức công bằng liên hệ đến ứng xử thích hợp với tha nhân. Đức can đảm liên quan đến sự vững vàng khi đối diện nguy hiểm. Đức tiết độ liên quan đến liều lượng thích hợp trong hành động của con người nơi chính bản thân mình.

Vậy thước đo thích hợp nằm ở đâu? Câu trả lời của thánh Tôma Aquinô có thể gây ngỡ ngàng: thước đo là lý trí của chúng ta. Nói như thế rất dễ bị hiểu lầm. Vấn đề ở đây không phải là thứ lý tính lạnh lùng làm mất niềm vui trong những lĩnh vực trực tiếp liên quan đến sự sống và sinh tồn của con người, cụ thể là chuyện ăn uống và tình dục.

Điều gọi là “hợp lý” trong lĩnh vực ăn uống và tình dục mang một ý nghĩa khác, và nếu xem xét kỹ, sẽ thấy ý nghĩa và giá trị lớn. “Hợp lý” ở đây là thứ thước đo để canh giữ năng lực sinh tồn nơi chúng ta, không để nó dẫn đến những hậu quả tiêu cực và hủy diệt. Nói cách tích cực hơn, đây là thứ thước đo và liều lượng giúp năng lực hoạt động của chúng ta thực hiện tốt mục đích xây dựng và phát triển con người.

Chính ở đây chúng ta thấy được điều cốt lõi của sự khiết tịnh và tiết độ. Không sống khiết tịnh và thiếu kềm chế khoái lạc không phải là xấu vì những niềm vui và hoan lạc mà giác quan đem lại là điều xấu, nhưng nó xấu là vì có thể gây nguy hiểm, kể cả hủy hoại chính mình và người khác. Có một dấu hiệu chính xác để nhận ra chúng ta có quá buông thả và vô kỷ luật trong chuyện ăn uống và tình dục hay không, đó là niềm vui chân chính. Niềm vui đích thực chỉ xuất hiện khi người ta không quá ích kỷ đến nỗi tham lam tìm kiếm mọi thứ hoan lạc, điều đó chỉ dẫn đến chỗ đánh mất chính mình.

Cũng phải nhìn nhận một thực tế là ngay từ đầu, Kitô giáo đã phải đối diện với mối nguy hiểm của thuyết Manikhê(Manicheism), chủ trương nhìn bất cứ điều gì liên quan đến xác thịt, kể cả chuyện ăn uống và tình dục, đều là cái xấu tự thân. Đang khi đó, thánh Phaolô đã nói từ lâu: “Tất cả những gì Thiên Chúa tạo dựng đều tốt, và không có gì phải loại bỏ, nếu biết dùng trong tâm tình tri ân cảm tạ” (1Tm 4,4).

Do đó, nhân đức tiết độ tìm thấy thước đo thích hợp và mục đích của mình ở chỗ này: mọi sự được Thiên Chúa tạo dựng phải được sử dụng theo như Chúa muốn. Trong viễn tượng đó, “khiết tịnh” mang ý nghĩa tích cực mà ngày nay người ta không muốn nghe. Tiết độ là nhân đức ngăn cản chúng ta đi tìm bản thân mình trong mọi sự đến độ lạm dụng và sử dụng sai mọi sự. Nhân đức tiết độ làm cho chúng ta nên “trong sáng”, nhờ đó biết trân trọng nhau cũng như tạo thành cách đúng mức.

Dĩ nhiên, nhân đức này đòi phải thực hành sự tự chế, tự chủ, điều tiết, chừng mực, sáng suốt. Cũng ở đây chúng ta hiểu được ý nghĩa của chay tịnh trong Kitô giáo, là để con tim chúng ta được tự do và thanh khiết, hoàn toàn mở ra với Thiên Chúa và tha nhân.

Bài 13. CÁC NHÂN ĐỨC TỰ NHIÊN VÀ CÁC NHÂN ĐỨC SIÊU NHIÊN

Sau khi bàn đến 4 nhân đức trụ, truyền thống Kitô giáo nói đến 3 nhân đức đối thần: đức tin, đức cậy, đức mến. Bốn và ba, cộng lại là bảy, con số biểu tượng cho sự hoàn hảo, tròn đầy. Từ rất lâu, số 4 đã được nhìn như con số diễn tả thế giới: 4 phương trời. Số 3 là con số thần linh: Thiên Chúa Ba Ngôi. Trong kiến trúc Tây phương, các ngôi nhà thờ chính tòa thường được xây dựng theo mô thức này: 4 và 3, để diễn tả chân lý này là trời và đất, Thiên Chúa và con người gặp gỡ nhau ở đây, nơi Đức Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-làm-người.

Tương tự như thế, những thái độ căn bản của con người được phân chia thành 4 thái độ tự nhiên do con người tập luyện và 3 thái độ siêu nhiên do Thiên Chúa ban. Sự phân chia này phù hợp với kinh nghiệm nhân sinh được trải nghiệm theo thời gian.

Cũng như bất cứ kỹ năng nào khác, nhân đức cần phải được học tập. Giáo dục có mục đích là xây dựng con người và tính cách.Có một cách nhìn sai lệch về ý nghĩa của nhân đức. Cách riêng từ thế kỷ 19, nhân đức được nhìn như sự đối nghịch với khoái lạc và niềm vui, như những bổn phận và bó buộc đi ngược khuynh hướng tự nhiên của con người. Cách nhìn này hoàn toàn khác với cách nhìn của các bậc thầy trong Kitô giáo. Với các ngài, nhân đức đáp ứng khuynh hướng đích thực và sâu xa nơi con người, và vì thế, thực hành nhân đức là một niềm vui (GLHTCG số 1810). Nền tảng của cái nhìn tích cực này là ở đây: ước vọng sâu xa nhất của con người là Sự Thiện, vì con người được sinh ra từ Đấng Tạo Hóa tốt lành và được tạo dựng để hưởng hạnh phúc.

Dĩ nhiên luân lý Kitô giáo biết rằng con người mang thương tích vì tội (số 1811). Chính vì thế, để làm điều lành, phải cố gắng rất nhiều. Cũng vì thế, toàn bộ đời sống con người là một nỗ lực liên lỉ, nhất là trong những quyết định nhỏ bé hằng ngày, làm sao để ước vọng Sự Thiện vượt thắng những cám dỗ và thử thách trong đời sống thường ngày. Cũng vì thế, chúng ta cần đến sự trợ giúp từ trên – là ân sủng – nâng đỡ và thêm sức cho ta, bảo vệ và thúc đẩy ta. Do đó luân lý Kitô giáo xác tín rằng không ai có thể thành công mà không cần đến sự trợ giúp của ân sủng, không có ân sủng thì sức riêng của chúng ta quá yếu đuối đang khi cám dỗ lại quá mạnh.

Tuy nhiên đây không phải là lý do duy nhất khiến chúng ta cần đến ân sủng. Chúng ta không được tạo dựng chỉ với mục đích đạt được cuộc sống thành công nơi trần thế. Đời sống con người chỉ trọn vẹn khi được tham dự hoàn toàn vào sự sống của Thiên Chúa. Đức Tin, Đức Cậy, Đức Mến được gọi là các nhân đức “đối thần” vì qua những nhân đức này, sự sống thần linh được ban xuống và cắm rễ trong linh hồn chúng ta (số 1813). Những nhân đức đó không do chúng ta làm nên nhưng chỉ đón nhận, dĩ nhiên không phải là đón nhận cách hoàn toàn thụ động, mà là đón tiếp và làm cho nó phát triển. Chỉ nhờ đức tin, đức cậy, đức mến mà đời sống con người mới thật sự trở thành “đời sống Kitô hữu”, “đời sống trong Đức Kitô”.

Bài 14. ĐỨC TIN

Đức tin là cửa ngõ dẫn vào sự sống thần linh. “Không có đức tin, không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa” (Dt 11,6), vì đức tin kết hợp linh hồn với Thiên Chúa, tạo tình thông hiệp với Ngài. Người tin là người “chạm đến” Thiên Chúa. Vì chúng ta không thể sống và đạt đến sự sống đời đời mà không có Chúa, nên đức tin cần thiết để được cứu độ, nghĩa là được sống (x. Mt 16,16).

Thế nhưng đức tin là gì? Phải chăng đức tin ở mức độ kém hơn so với sự hiểu biết? Phải chăng đức tin chỉ là một ý kiến chứ không phải là sự hiểu biết chắc chắn? Con người ngày nay sống trong một thế giới nặng tính kỹ thuật, đòi hỏi phải có sự hiểu biết rõ ràng, cho nên rất khó chấp nhận đức tin vì nó không rõ ràng. Tuy nhiên nhà thần học Joseph Ratzinger (sau này là Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI) đã chứng minh rằng chính thế giới kỹ thuật cao này lại đòi hỏi niềm tin nhiều hơn. Bạn có nắm chắc những tính toán chính xác của tòa nhà cao ốc bạn đang làm việc không? Bạn có nắm chắc vận hành của thang máy đang dùng không? Bạn có hiểu rõ những thứ thuốc bác sĩ kê ra trong toa thuốc không? Hóa ra chúng ta thường xuyên cậy dựa vào những kỹ năng và hiểu biết của những người khác, những người hiểu rõ vấn đề trong lĩnh vực chuyên môn, và chúng ta tín nhiệm, tin tưởng nơi họ. Một xã hội không có sự tin tưởng nhau thì không thể sống nổi. Niềm tin “tự nhiên” là cách diễn tả sự tin tưởng lẫn nhau mà nếu không có, chúng ta không thể sống chung, không thể hòa với thế giới được.

Đức tin siêu nhiên là sự chắc chắn, có nền tảng vững vàng, thường xuyên được kiên cường bằng những kinh nghiệm của chính chúng ta và của người khác: chúng ta có thể hoàn toàn và tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa. Nếu trong đời sống thường ngày, chúng ta không ngừng tin tưởng vào những kỹ năng và hiểu biết của người khác (các chuyên viên), thì lại càng có lý hơn khi tin tưởng và cậy dựa vào Đấng toàn năng và toàn tri, Đấng tạo dựng trời và đất, Đấng nắm giữ mọi sự trong tay Ngài. “Nhờ đức tin, con người tự hiến toàn thân cho Thiên Chúa” (GLHTCG số 1814); “Bằng đức tin, con người đem trí khôn và ý chí của mình quy phục Thiên Chúa cách trọn vẹn” (số 143). Đây không phải là sự vâng phục mù quáng, nhưng đúng hơn, là sự tín nhiệm đầy yêu thương nơi Đấng đáng tin hơn bất cứ thụ tạo nào.

Tự sức mình, chúng ta không thể có được sự quy phục mặc khải và thánh ý Thiên Chúa. “Đức tin là một hồng ân …”, ân sủng Thiên Chúa ban cách tự do (số 153). Dù vậy, hồng ân này cần được chăm sóc. Đức tin có thể phát triển mà cũng có thể lụi tàn, tùy vào việc chúng ta có “giữ đức tin” hay không (số 1816) hay là đánh mất (số 162). Để đức tin mạnh mẽ, cần có hành động (số 1815), nghĩa là một đời sống bằng đức tin và làm chứng cho đức tin (số 1816).

Đức tin không đồng nghĩa với “kinh nghiệm”. Nhiều vị thánh đã làm chứng rằng các ngài phải trải qua “đêm tăm tối của đức tin” (số 165), trong đó, cảm nghiệm và cảm xúc hầu như hoàn toàn vắng bóng, chỉ còn sự tín thác đầy yêu thương. Nhưng chính trong những giờ phút tăm tối đó mà đức tin chiếu sáng, bởi lẽ sự vững vàng của đức tin phát xuất từ sự trung tín của Thiên Chúa.

Bài 15. ĐỨC CẬY

Năm 1985, khi Đức hồng y Ratzinger xuất bản cuốn The Ratzinger Report (thực hiện dưới hình thức phỏng vấn về nhiều vấn đề quan trọng của Giáo Hội), cả một cơn bão phản đối và phê bình nổi lên. Ngài bị tố cáo là người bi quan vì đã mô tả tình hình đức tin bằng khung màu xám. Để trả lời cho những phê bình này, Đức hồng y đã trình bày sự khác biệt giữa hai cặp từ ngữ “bi quan – lạc quan”, và “hi vọng – thất vọng”.

Có những người có tính lạc quan. Họ vui vẻ, tự tin, không dễ chán nản, đang khi đó lại có những người tính khí bi quan, thường nhìn vào mặt tối của sự vật. Chúng ta không hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính khí của mình, dù có thể tác động lên nó cách nào đó.

Hi vọng là điều gì đó hoàn toàn khác với sự lạc quan. Với niềm tin tưởng, hi vọng hướng đến những gì sẽ đến và những gì chưa có trong hiện tại. Hi vọng trước hết là một thái độ của con người mà nếu không có, không thể nói đến cuộc sống làm người: bệnh nhân hi vọng hồi phục; người đang yêu hi vọng người yêu quay lại; những ai đau khổ vì chiến tranh hi vọng hòa bình. Cuộc sống con người ít nhiều được dệt bằng hi vọng. Không thể sống mà không có hi vọng. Phải chăng chết cũng có nghĩa là dập tắt mọi hi vọng? Nếu sự chết là tiếng nói cuối cùng, nếu cuộc sống trần thế này là “cơ may cuối cùng” trước hư vô, thì nói cho cùng, cũng chẳng có hi vọng đích thực. Khi đó, hi vọng một ngày Chúa nhật đẹp trời để trượt tuyết cũng chỉ là một ảo tưởng, bởi lẽ nó che giấu sự tuyệt vọng vì cái chết không thể tránh vẫn đang chực chờ.

Trong cách nhìn của Kitô giáo, hi vọng luôn luôn là niềm hi vọng vượt trên sự chết. Thánh Phaolô diễn tả về Tổ phụ Abraham: “Dù tuyệt vọng, ông vẫn một niềm hi vọng” (Rm 4,18). Không có dấu hiệu cụ thể nào ủng hộ ông cả: bản thân ông đã già, bà Sara vợ ông cũng thế. Nhưng Abraham vẫn tin vào lời hứa của Thiên Chúa rằng ông sẽ có con nối dõi. Dù bên ngoài là thực tế đầy thất vọng, Abraham vẫn tín thác vào Đấng sẽ ban cho ông đứa con, và ông còn sẵn sàng hiến tế đứa con ấy cho Ngài.

Đức Cậy (Hi vọng) không nhất thiết phải lạc quan. Đức Cậy nhận diện những khó khăn và tìm hiểu tình hình. Đức Cậy không tin, cũng chẳng mong chờ sự tiến bộ kỹ thuật sẽ tạo nên thiên đàng trần gian và loại trừ mọi khổ đau khỏi cuộc sống trần thế này. Đức Cậy dựa vào chính Thiên Chúa, cắm rễ nơi Đức Giêsu Kitô (Dt 6,19-20), và vững mạnh nhờ Thánh Thần. Nói như thánh Bonaventura: Đức Cậy “hi vọng Thiên Chúa và từ Thiên Chúa”.

Thiên Chúa là lý do và đối tượng chính yếu của Đức Cậy. Đức Cậy không bi quan. Đức Cậy vượt lên trên cái nhìn bi quan về những thực tại trần thế, vì nhờ đức tin, Đức Cậy bám chặt vào Thiên Chúa, Đấng đã phục sinh Chúa Giêsu từ cõi chết, Ngài sẽ chiến thắng sự chết và quyền lực của nó. Do đó Đức Cậy ban tặng niềm vui ngay giữa những thử thách: “Hãy vui mừng trong hi vọng, kiên nhẫn khi gặp gian truân” (Rm 12,12). Vì Đức Cậy hướng đến hạnh phúc bất diệt trên trời, cho nên “bảo vệ chúng ta khỏi sự nản chí, nâng đỡ khi bị bỏ rơi, mở rộng trái tim bằng sự mong đợi vinh phúc vĩnh cửu, gìn giữ chúng ta khỏi tính ích kỷ và đưa chúng ta đến với vinh phúc của đức mến” (GLHTCG số 1818). Đức Cậy làm cho chúng ta “không phải thất vọng” (Rm 5,5).

Bài 16. ĐỨC MẾN

“Nếu tôi … không có tình yêu”: những lời nổi tiếng của thánh Phaolô trong Bài ca Đức Mến (1 Cr 13) làm chứng và xác quyết rằng chẳng có gì trong đời sống con người có giá trị nếu thiếu tình yêu (GLHTCG 1826). Trong tất cả các nhân đức luân lý và đối thần, Đức Mến là cao trọng nhất (1 Cr 13,13). Thánh Catarina Siena, vị thánh được Giáo Hội tuyên phong là Tiến sĩ Hội Thánh, đã trình bày lý do: “Linh hồn không thể sống mà không có tình yêu; linh hồn luôn mong muốn yêu thương điều gì đó. Nói cho cùng, linh hồn được làm nên bằng chất liệu tình yêu, vì Thiên Chúa đã dựng nên nó từ tình yêu” (Đối Thoại 2,1).

Lý do căn bản nhất của mọi sự là “kế hoạch hoàn toàn do lòng nhân hậu” của Thiên Chúa khi tạo dựng thế giới và con người (số 1). Mọi sự được tạo thành bằng chất thể tình yêu, nghĩa là từ ý muốn nhân lành của Chúa. Cội nguồn của mọi sự là tình yêu Thiên Chúa, tình yêu muốn thông ban chính mình (số 294). Sách Thánh nói về các thụ tạo: “Và Thiên Chúa thấy thật là tốt” (St 1,10). Tác giả Josef Pieper diễn tả: “Yêu ai hay yêu điều gì đó là hướng về người đó hay sự vật đó mà nói: Thật tốt lành khi có bạn, khi bạn hiện hữu trong thế giới này”. Và triết gia hiện sinh người Pháp Gabriel Marcel diễn tả xa hơn: “Yêu ai là nói với người đó: Bạn sẽ không chết”.

Thế nhưng phải chăng tất cả những gì được dán nhãn “tình yêu” đều là tình yêu? Có nhiều hình thái của tình yêu và cũng có những lệch lạc. Yêu một đứa nhỏ là thứ tình yêu khác với tình yêu nhục dục, và cả hai lại khác với tình bạn. Tất cả những hình thái này đều có thể suy thoái, biến cái gọi là tình yêu thành ngục tù, nô lệ, tàn bạo. Để chắc chắn tình yêu trẻ nhỏ là tình yêu đúng nghĩa, tình yêu đó phải được khuôn đúc bằng hình thái tình yêu cao nhất mà Kinh Thánh gọi là agape, caritas, là Đức Mến, một nhân đức đối thần (số 1822). Tình yêu nhục thể vốn là điều tốt và được Thiên Chúa trao ban, nhưng nó có thể suy thoái thành sự lạm dụng khi biến người khác thành phương tiện cho mình đạt được mục đích ích kỷ của bản thân, vì thế nó cần được agape định hình và hướng dẫn (số 1827). Cũng thế, agape giữ gìn tình bạn khỏi sự ích kỷ, mở ra tình bạn chân chính, bao gồm cả Thiên Chúa và tha nhân.

Vậy, tình yêu đích thực, tình yêu được gọi là nhân đức đối thần này, hệ tại ở điều gì? Cái gì làm nên điều răn thứ nhất và cao trọng nhất này? Chúng ta cần phải làm gì (số 1823)?

Sẽ là sự hiểu lầm nếu cho rằng ba hình thái tình yêu đã nói trên đều là ích kỷ, chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân, còn Đức Mến thì hoàn toàn vô vị lợi. Nói cho cùng, điều răn thứ nhất dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, và yêu người lân cận “như chính mình”. Như thế tình yêu nơi chúng ta không bao giờ là hoàn toàn vô vị lợi. Là những thụ tạo đón nhận tất cả những gì đang có và đang là, chúng ta luôn cần đến tình yêu; vâng, trong quả tim nhân loại luôn có nhu cầu yêu thương đến vô tận. Tuy nhiên chúng ta khám phá ra rằng nỗi khao khát yêu thương vô tận này chỉ có thể đong đầy khi chính chúng ta yêu thương, cho đi quà tặng tình yêu.

Với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, khi chúng ta lớn lên trong tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân, thì con tim chúng ta càng mở rộng để đón nhận tình yêu, cho đến một ngày Thiên Chúa đổ đầy quả tim chúng ta bằng Tình Yêu của Ngài, vô biên, vô tận.

Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta thấy nơi Đức Mến được thể hiện cách đặc biệt, đó là yêu thương kẻ thù (số 1825), tức là nhìn thấy nơi người bị xem là kẻ thù, không phải sự dữ mà họ gây ra cho chúng ta, nhưng là sự tốt lành ở trong họ xét như là tạo thành của Chúa. Đây chính là sự tuyệt hảo của tình yêu nơi Đức Kitô, Đấng đã yêu thương tôi đến nỗi chết vì tôi (Gal 2,20).

Bài 17. CÁC HỒNG ÂN CỦA CHÚA THÁNH THẦN

Trong những bài suy niệm ngắn trước đây, chúng ta đã nói về nền tảng của luân lý Kitô giáo: về cùng đích của con người, hạnh phúc sung mãn, về những hành động và thái độ qua đó chúng ta hướng đến cùng đích bằng sự chọn lựa tự do. Những nhân đức có nhiệm vụ đặc biệt để thực hiện công việc này, vì là những thái độ đã trở thành như bản tính thứ hai, giúp chúng ta sẵn sàng và mau mắn làm những việc tốt.

Trong giáo huấn luân lý Kitô giáo, như thánh Tôma Aquinô khai triển, các hồng ân của Chúa Thánh Thần đóng vai trò riêng, cho dù cách chung người ta hiểu không đúng. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công giáo cũng vắn tắt nhắc đến những hồng ân này (số 1830-1831). Vậy đâu là tầm quan trọng đặc biệt của những hồng ân này? Tại sao những hồng ân đó lại cần thiết để đời sống Kitô hữu vươn tới sức sống tròn đầy?

“Tất cả những ai được Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn đều là con cái Thiên Chúa” (Rm 8,14). Buông mình theo sự hướng dẫn của Thánh Thần, sống và làm việc theo sự thúc đẩy của Ngài, đó là điều làm nên “Đời sống trong Đức Kitô” (Tựa đề phần III trong Sách Giáo Lý).

Sách Giáo Lý trình bày hai nội dung quan trọng về những hồng ân của Chúa Thánh Thần: (1) Đó là “những xu hướng thường xuyên giúp cho con người dễ dàng tuân theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần” (1830); (2) “Các ơn này giúp các tín hữu dễ dàng vâng phục cách mau mắn những linh hứng của Thiên Chúa” (1831). Điều đó có nghĩa gì?

Hành động cách đúng đắn về mặt luân lý là hành động theo lý trí, khôn ngoan hướng đến những gì thích hợp. Chúng ta đã đón nhận sự tự do Thiên Chúa ban để chính mình có thể chọn lựa điều tốt. Không có tự do, cũng không có trách nhiệm, và trách nhiệm đòi hỏi phải suy nghĩ thấu đáo. Tự do của chúng ta được thể hiện không những trong hành động và điều hành, mà còn trong việc chấp nhận sự điều hành của Thiên Chúa. Buông mình theo sự hướng dẫn của Chúa chính là hình thức cao cả nhất của tự do.

Các bậc thầy trong đời sống thiêng liêng diễn tả bằng hình ảnh sống động: Khi chúng ta nắm giữ cuộc đời trong tay mình, điều đó giống như mình chèo thuyền bằng sức riêng; khi chúng ta để cho Chúa hướng dẫn thì giống như con thuyền có cánh buồm giúp đi tới nhẹ nhàng hơn. Các hồng ân Thánh Thần làm cho những khả năng và hành động của chúng ta năng động hơn từ bên trong, mạnh mẽ hơn và dễ dàng hơn là khi thực hiện bằng sức riêng.

Hoạt động của các ân huệ này – theo Isaia 11,2 là có bảy hồng ân – thường tỏ hiện cách rõ ràng nơi những con người đơn sơ. Có thể người nào đó có được sự khôn ngoan và minh triết nhờ học hành nghiên cứu hoặc trải nghiệm trong đời. Tuy nhiên những ơn gọi là “khôn ngoan, thông hiểu” mang ý nghĩa khác hơn, nó giống như cảm nhận thiêng liêng, “bản năng của Thánh Thần” làm cho chúng ta nhìn các sự vật và hoàn cảnh trong ánh sáng của Chúa, chứ không chỉ theo những tính toán của khôn ngoan nhân loại. Trong đời sống các thánh, chúng ta thấy “bản năng thiêng liêng” này hoạt động thế nào để dẫn các thánh vươn xa hơn những chuẩn mực của con người. Các hồng ân của Chúa Thánh Thần là những điều đang tạo nên sự mới mẻ, tươi trẻ, năng động trong đời sống Kitô hữu, ngay cả trong những việc nhỏ bé thường ngày.

 

Bài 18. Tội là gì?

Từ bài đầu đến nay, khi trình bày luân lý Kitô giáo, chúng ta chủ yếu nói về những yếu tố tích cực, những viên đá tảng của đời sống luân lý tốt lành. Thế nhưng, không ai lại không có kinh nghiệm về những sai trái, lỗi lầm, thất bại trong đời.

Cũng vậy, kinh nghiệm dạy rằng chúng ta không chỉ đơn thuần đối diện với những khó khăn về kỹ thuật, nhưng là những lỗi phạm về mặt luân lý đạo đức, những lỗi phạm mà chính chúng ta thấy xấu hổ và phải chịu trách nhiệm. Chúng ta đang nói về tội (GLHTCG số 386).

Tội là gì? Có “tội” thật không? Ý thức về tội phải chăng chỉ là hậu quả của thứ cảm tính tôn giáo do Giáo Hội nhồi nhét? Nhiều nhà triết học và tâm lý học đã cố gắng “lột mặt nạ” của tội, cho rằng đó chỉ là sự nhồi nhét (hoặc tưởng tượng) của tôn giáo để tạo quyền lực trên con người. Nhưng trong thế kỷ này, khi đối diện với quá nhiều độc ác, quá nhiều sự dữ cố ý và tính toán tinh vi, quả là quá ngây thơ nếu muốn khước từ thực tại tội lỗi. Thế nhưng tội là gì?

Trước hết, đó là việc làm sai trái, vi phạm lề luật. Khi chúng ta nói đến việc “vi phạm luật giao thông”, điều đó có nghĩa là vi phạm lề luật khi lái xe, và bị coi là tội. Cách nói đó giúp ta hiểu tội là sự vi phạm trật tự của tạo thành, trật tự được trình bày trong Mười Điều Răn. Tuy nhiên không giống như việc vi phạm luật giao thông, trật tự tạo thành không do con người quyết định, nhưng do Thiên Chúa Tạo Hóa. Khi ta sống và hành động phù hợp với trật tự đó, thì đời sống nội tâm, cũng như bên ngoài của ta, có trật tự. Hạnh phúc và niềm vui ta cảm nhận thể hiện sự phù hợp của hành động với thánh ý Thiên Chúa.

Sự vô trật tự của tội xuất hiện khi chúng ta gắn chặt với một cái gì đó, chẳng hạn chỉ thấy mỗi “trái cấm” là hấp dẫn, còn bao nhiêu thứ trái khác trong vườn thì lại bị bỏ quên (St 3,1-7). Cũng vậy, chúng ta lãng quên, hoặc dẹp bỏ tiếng gọi của Thiên Chúa, trong lương tâm, trong giáo huấn. Sách Giáo Lý gọi là “sự quyến luyến lệch lạc với một số điều tốt đẹp nào đó” (số 1849). Do đó, tội, tự bản chất, là quay lưng với Thiên Chúa, tránh mặt Chúa, không nghe tiếng Ngài: “Cũng như tội đầu tiên, tội là một sự bất tuân, một sự nổi loạn chống Thiên Chúa, vì ao ước muốn sẽ nên như những vị thần biết điều thiện, điều ác” (số 1850). Nói như thánh Augustinô, tội là “yêu mình đến mức khinh chê Thiên Chúa”.

J. Pieper nhận xét độc đáo rằng yếu tính của tội được minh chứng qua sự kiện này: chúng ta không bao giờ phạm tội với “hết linh hồn, hết sức lực”, nhưng luôn có sự e dè nào đó. Chỉ khi làm điều lành, chúng ta mới tận hiến toàn bộ sức lực và tâm hồn. Khi làm điều xấu, không bao giờ ta cảm thấy thoải mái, nhưng đúng hơn là bị xâu xé giữa cái mình đang làm và cái mà mình nhìn nhận là tốt và góp phần mang lại hạnh phúc đích thực.

Một khía cạnh khác của tội là nó làm cho chúng ta mù quáng trước những liên hệ này. Thảm kịch của tội là nó thúc đẩy một người tìm cách biện hộ cho mình (St 3,8-13).

Nguy hiểm lớn nhất, là sự cứng lòng, không hối cải.

Chỉ có Chúa Thánh Thần mới có thể vạch trần tội lỗi, làm cho trái tim chúng ta hoán cải, và “nên công chính để được sống đời đời nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 5,12).

Bài 19. Tội nặng - Tội nhẹ

Hầu như ai cũng thấy các tội lỗi không có cùng mức độ nghiêm trọng như nhau. Giết người thì khác, ăn cắp món tiền nhỏ của người ta thì khác. Tuy nhiên, khi thử xác định chính xác hơn điều gì làm thành tội trọng thì xem ra lại khó khăn. Chưa kể có nhiều điều vốn được coi là “tội trọng”, thì ngày nay ít người coi đó là tội, kể cả tội nhẹ.

Theo giáo huấn truyền thống, phải hội đủ ba điều kiện thì một hành vi mới bị coi là tội trọng: “Tội trọng là tội mà đối tượng của nó là một chất liệu nghiêm trọng, và ngoài ra, phạm tội đó với sự hiểu biết đầy đủ và với sự ưng thuận chủ ý” (GLHTCG số 1857).

Theo định nghĩa này, có lẽ người ta tự hỏi liệu có thể phạm tội trọng không. Chắc chắn là có những tội nghiêm trọng xét về đối tượng: sát nhân, vô đạo, ngoại tình … Nhưng còn hai điều kiện khác thì sao? Có ai phạm tội trọng “với đầy đủ sự hiểu biết” không? Thánh Tôma nói: “Mù quáng là tiền đề của tội”.

Khi đối diện với tội nghiêm trọng nhất mà con người phạm phải, tức là giết chết Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã chẳng thưa với Chúa Cha sao: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34)?  Nếu họ không biết việc họ làm, thì chưa hội đủ điều kiện thứ hai: “với sự hiểu biết đầy đủ”. Tuy nhiên, ở một nơi khác, Chúa Giêsu nói rõ ràng: “Nếu các ông đui mù thì các ông không có tội, nhưng giờ đây, các ông bảo rằng mình sáng mắt, nên tội các ông vẫn còn”(Ga 9,41). Phải chăng có một thứ “nhìn mà không thấy” (x. Mc 4,12)?

Có lẽ đây là “mầu nhiệm của sự gian ác” đáng sợ nhất (2 Thes 2,7), tức là mắt chúng ta mở to, nhưng lại mù quáng trước sự dữ. Nhà phú hộ bị đe dọa chịu trừng phạt đời đời vì ông ta không để ý chút gì đến người nghèo Ladarô ngay trước cửa nhà. Ông ta không còn nhìn thấy Ladarô nữa vì đời sống xa hoa đã làm mờ mắt ông.

Theo cách mô tả về Ngày Phán Xét Chung (x. Mt 25,31-46), không phải những tội cố tình phạm sẽ khiến người ta bị án phạt đời đời, nhưng đúng hơn là những tội bỏ sót, quên lãng: “Ta đói, các ngươi không cho ăn” (Mt 25,42). “Làm bộ không biết và sự cứng lòng không giảm thiểu, nhưng gia tăng tính cách cố ý của tội” (số 1859).

Vậy, điều gì làm cho một tội trọng thành “tội đưa đến sự chết” (x. 1 Ga 5,16-17), khiến cho phần rỗi đời đời của linh hồn bị đe dọa? Câu trả lời của các bậc thầy về linh đạo rất hữu ích ở đây: đó là sự “yêu mình đến nỗi khinh chê Thiên Chúa” (Thánh Augustinô). Cũng các bậc thầy đó cho thấy sự khác biệt giữa tội nặng và tội nhẹ là ở hậu quả của nó: tội trọng hủy diệt tình yêu Thiên Chúa, tội nhẹ làm cho tình yêu đó bị tổn thương.

Đó là lý do tại sao chỉ có sự hoán cải sâu xa và ân sủng của Thiên Chúa mới có thể thức tỉnh linh hồn khỏi tội trọng, trong khi tội nhẹ có thể được chữa lành nhờ gia tăng tình yêu. Tuy nhiên, nhiều tội nhẹ có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng. Tội nhẹ có chủ ý và nhất định không thống hối, khiến chúng ta dần dần đi đến chỗ phạm tội trọng: “Các tội mà chúng ta gọi là nhẹ, bạn chớ coi thường … Nhiều vật nhỏ làm thành một khối lớn, nhiều giọt nước làm thành một dòng sông, nhiều hạt lúa làm thành một đồng lúa” (Thánh Augustinô). Phương dược tuyệt diệu mà Chúa ban cho chúng ta, là cơ may đi xưng tội, trở về với tình yêu (số 1458).

Bài 20. CỘNG ĐỒNG

Khi tìm hiểu luân lý Kitô giáo từ đầu đến nay, chúng ta chủ yếu bàn về cái tốt hay xấu, đúng hay sai, trong những thái độ và hành động của mỗi cá nhân. Sách Giáo Lý theo sát lược đồ của Hiến chế mục vụ Vui Mừng và Hi Vọng, cho nên trong phần tiếp theo sẽ bàn đến cộng đồng nhân loại, vốn là điều cần thiết cho sự phát triển cá nhân (GLHTCG số 1877).

Trong cách nhìn của Kinh Thánh và Kitô giáo, mối tương quan giữa cá nhân và cộng đồng (theo nghĩa mở rộng là xã hội) có hai cực, và phải quan tâm đến cả hai thì mới có cái nhìn toàn diện. Con người có đặc tính cộng đồng. Ngay từ lúc tượng thai, con người đã sống trong mối tương quan với người khác và cần đến cộng đồng: với mẹ, với cha, với anh chị em. Vì thế, gia đình là cộng đồng đầu tiên theo tự nhiên đối với mọi người.

Sau đó những hình thức khác của cộng đồng được thêm vào: ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo, xứ sở, dân tộc, quốc gia … Do đó, sống tương quan với người khác, thuộc về một cộng đồng, những điều đó không phải là cái gì thêm vào và không cần thiết. Ngày nay cần phải nhắc lại điều này cách rõ ràng, vì quan điểm đang chiếm ưu thế là chủ nghĩa cá nhân và sống đơn thân đang trở thành mô thức quen thuộc trong xã hội.

Từ những nhận xét trên, cộng đồng nhân loại không chỉ đơn thuần là sự tổng hợp những cá nhân riêng lẻ, nhưng là “một tổng thể những cá vị được liên kết với nhau cách hữu cơ theo một nguyên lý hợp nhất nào đó, vượt trên mỗi cá vị” (GLHTCG số 1880). Các cộng đồng và xã hội được nối kết với nhau bởi điều gì đó lớn lao hơn, vượt lên trên mỗi cá nhân. Chẳng hạn, ngôn ngữ là một di sản chung nối kết chúng ta, và đến lượt chúng ta lại cộng tác với nhau để chuyển giao di sản đó cho thế hệ sau. Những truyền thống lề luật, ứng xử, văn hóa, tôn giáo là những dữ kiện căn bản của cộng đồng mà nếu không có, chúng ta không thể sống. Đồng thời hàm ngậm trong đó là bổn phận củng cố, chuyển giao và phát triển. Bởi lẽ tất cả chúng ta đều được các cộng đồng nâng đỡ, nên chúng ta cũng mắc nợ cộng đồng trong việc chia sẻ những di sản đó.

Ngoài ra, phải lưu tâm đến cực thứ hai. Chúng ta là những hữu thể mang tính cộng đồng, điều này hoàn toàn đúng, thế nhưng mỗi một nhân vị không bị hòa tan trong cộng đồng. Với phẩm giá cao quý và vận mệnh vĩnh cửu, mỗi nhân vị vượt lên trên những ràng buộc của cộng đồng: “Nguyên lý, chủ thể và mục đích của tất cả các định chế xã hội là, và phải là, nhân vị” (số 1881). Chúng ta không bao giờ hoàn toàn thuộc về gia đình, dân tộc, quốc gia. Con người chỉ hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Không thể chế nào có quyền toàn diện và tuyệt đối trên nhân vị.

Chủ nghĩa cá nhân quên mất mối liên hệ của cá nhân với cộng đồng; ngược lại, chủ nghĩa tập thể (khuynh hướng của những thể chế độc tài) lại khước từ phẩm giá siêu việt của nhân vị. Giáo huấn xã hội của Công giáo phải thường xuyên cố gắng để làm mới lại nhận thức về cả hai khía cạnh này.

Đây không phải là chuyện ngây thơ và không tưởng. Hãy nhìn vào thực tế để thấy việc ý thức và trân trọng phẩm giá của mỗi con người quan trọng thế nào, nếu không, người ta dễ dàng loại trừ trẻ sơ sinh, người già cả, đau yếu. Đàng khác, phải có ý thức về cộng đồng, nếu không, xã hội ngày càng trở nên lạnh lùng và phi nhân.

Bài 21. Quyền Bính

Quyền bính đến từ Thiên Chúa. Đây là điều Giáo Hội dạy, dựa trên Kinh Thánh và lý tính nhân loại. Khẳng định này thật xa lạ với nhiều người ngày nay. Quyền bính thường bị hiểu theo nghĩa tiêu cực; tốt lắm thì được hiểu là do sự ủy thác của người dân.

Thánh Phaolô tóm tắt điều Kinh Thánh nói ở nhiều nơi: “Không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập” (Rm 13,1).

Phải hiểu thế nào? Phải chăng đây là cách nhìn trước thời dân chủ, khi nhà lãnh đạo cai quản là do Thiên Chúa đặt lên, chứ không do dân bầu?

Hãy bắt đầu bằng sự kiện hiển nhiên với hầu hết mọi người: “Mọi cộng đồng nhân loại đều cần có quyền bính cai quản, điều hành” (GLHTCG số 1898). Dàn nhạc không hoạt động tốt nếu không có người chỉ huy, công ty không tiến triển nếu không có giám đốc, chính quyền không hoạt động được nếu không có người lãnh đạo, dù người đó được chỉ định hay do dân bầu. Không có quyền bính lãnh đạo thì sự hỗn mang và vô trật tự sẽ diễn ra, và như thế, cộng đồng không thể phát triển, công trình chung không thể thành công.

Một ông “xếp” chứng tỏ quyền bính thực sự của mình khi dưới sự điều hành của ông, công ích được thăng tiến. Trong tiếng La tinh, từ “quyền bính” là auctoritas, gốc là động từ augere, nghĩa là lớn lên. “Quyền bính” là phẩm chất của những người thúc đẩy sự phát triển và đẩy lui những trì trệ, luôn hướng đến thiện ích của các cá nhân cũng như cộng đồng.

Dĩ nhiên, điều này đòi hỏi những điều kiện: Bất cứ ai nắm giữ quyền bính – dù trong gia đình hay nơi làm việc hoặc chính trị – đều không được dùng quyền cách độc đoán (GLHTCG số 1902).

Để có thể điều hành, không phải chỉ có quyền lực điều hành là đủ, mà còn phải thực thi quyền bính đó cách hợp pháp và đúng đắn. Những lề luật bất công và những mệnh lệnh trái luân lý sẽ hủy diệt quyền bính và không thể bó buộc lương tâm. Chính ở đây mà chúng ta hiểu tại sao các Tông Đồ trả lời trước tòa án: “Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là người ta” (Cv 5,29). Như Thánh Gioan XXIII nói: “Trong trường hợp này, quyền bính không còn hiệu lực, và trở thành sự lạm dụng đáng xấu hổ” (GLHTCG số 1903).

Chính vì thế, điều rất quan trọng là luật pháp và các thể chế phải được hướng dẫn bởi trật tự luân lý khách quan, bởi thiên luật. Cũng như những lề luật bất công và những cấu trúc tội lỗi có thể dẫn đến nhiều thiệt hại, thì sự lạm dụng quyền bính cũng thế.

Dĩ nhiên, ngay cả quyền bính tốt đẹp nhất cũng chẳng có ích gì nếu không được tôn trọng. Ngày nay, chúng ta dễ quên rằng phải nhìn nhận và biết ơn những người mang gánh nặng trách nhiệm và quyền bính, và hơn nữa, phải cầu nguyện cho họ để họ có được sự trợ giúp của Thiên Chúa, Đấng là cội nguồn mọi quyền bính tốt lành.

Bài 22. Công Ích

Ai cũng mong hạnh phúc, ai cũng cố vươn đến “sự tự thể hiện”, nghĩa là phát triển đời sống, hoàn thành những ước vọng riêng của mình. Vậy làm thế nào để những ước muốn này hòa hợp với những đòi hỏi của cộng đồng?

Thật vậy, không chỉ có những ích lợi của mỗi cá nhân, nhưng còn phải nghĩ đến ích lợi của cộng đồng. Làm cách nào để hai thứ ích lợi này hòa với nhau? Phải chăng ích lợi của cộng đồng chỉ đạt được khi mỗi cá nhân bị bó buộc (bằng pháp luật và sự kiểm soát) phải bỏ lối sống cá nhân? Hoặc phải chăng sẽ có sự quân bình giữa cá nhân và cộng đồng khi người ta cố gắng đem lại thiện ích lớn nhất có thể cho số đông trong xã hội?

Thế nhưng hạnh phúc là gì? Hạnh phúc hệ tại điều gì? Và công ích, ích lợi của cộng đồng là gì? Tầm nhìn Kitô giáo về điều này giống như đường biểu diễn với hai cứ điểm.

Cứ điểm thứ nhất, là xác quyết dựa trên Mặc khải rằng con người có phẩm giá siêu việt, vì con người được Thiên Chúa tạo dựng theo hình ảnh Ngài, hướng đến Thiên Chúa và hạnh phúc vĩnh cửu trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. Tất cả mọi sự khác, phải được sắp xếp để hướng đến mục đích tối hậu và cao cả nhất này.

Tuy nhiên, không thể thực hiện mục đích này cách cá nhân và ích kỷ. Chính Thiên Chúa, trong mầu nhiệm khôn dò của Ngài, cũng là một “cộng đồng” các Ngôi Vị. Không ai trong chúng ta đạt tới mục tiêu này một mình. Điều này hiển nhiên là đúng trong thực tại đời sống trần thế, và còn đúng hơn khi nói đến mục đích siêu nhiên là đời sống vĩnh cửu.

Chính vì thế, ích lợi của cá nhân và ích lợi của cộng đồng xoắn xuýt lấy nhau. Sự phong phú cá nhân có thể đạt được cách dễ dàng và đầy đủ hơn khi có những điều kiện xã hội đúng đắn (số 1906).

Có ba yếu tố chủ yếu làm nên công ích:

Một là, sự tôn trọng vô điều kiện đối với nhân vị: Cho đến ngày nay, chưa từng có một chế độ nào khinh bỉ con người (hoặc chỉ khinh bỉ một nhóm người) mà có thể đem lại công ích về lâu về dài. Tôn trọng nhân vị là điều tối cần thiết; chỉ có xã hội nào xây nền trên nguyên lý này, mới có thể phát triển thật sự (số 1907).

Hai là, thiện ích của cộng đồng: Kiến tạo sự quân bình giữa ích lợi của các cá nhân và ích lợi của các nhóm, là đòi hỏi tiên quyết cho một xã hội, trong đó mọi người đều có thể có được những nhu cầu thiết yếu của đời sống (số 1908).

Ba là, hòa bình, nghĩa là “sự vững chắc và an toàn của một trật tự chính đáng” (số 1909). Thông thường, người ta chỉ nhận ra giá trị cao quý của tự do khi bị mất đi.

Như thế, chúng ta hiểu được tại sao Thánh Tôma Aquinô mô tả công ích như thiện ích cao quý nhất cho các cá nhân cũng như cộng đồng. Do đó, sử dụng mọi nguồn lực có thể, để phục vụ ích chung, là bổn phận cao cả. Cũng vì thế, chúng ta phải trân trọng và cảm ơn tất cả những ai đang phục vụ công ích.

Bài 23. Bình đẳng và Đa dạng

Ngày nay, ít có vấn đề nào khó cho bằng việc bàn đến sự bình đẳng và đa dạng trong nhân loại. Cũng rất quan trọng khi phải làm sáng tỏ hai điều này: một là, tất cả mọi người đều thật sự có phẩm giá bình đẳng; hai là, mỗi người đều khác nhau và không ai chỉ đơn thuần giống người khác. Làm thế nào để mô tả mối tương quan đúng đắn giữa hai khía cạnh này?

Rất đáng đọc lại thông điệp của Đức Piô XII, ban hành vào tháng Mười năm 1939, trong đó ngài giải thích hết sức rõ ràng tại sao Giáo Hội không thể chấp nhận chủ thuyết Quốc Xã về giống nòi. Tất cả mọi người, không trừ ai, đều chia sẻ cùng một bản tính nhân loại; trái đất này được trao cho tất cả mọi người như một nơi để sinh sống; mọi người đều có chung một mục đích siêu nhiên là sự sống vĩnh cửu với Thiên Chúa; mọi người đều có cùng một Đấng Cứu độ, Đức Giêsu Kitô, đã chết và sống lại cho mọi người (x. GLHTCG số 360; 1939).

Nhìn từ viễn tượng Kitô giáo, “mọi hình thức kỳ thị dựa trên giới tính, chủng tộc, màu da, hoàn cảnh xã hội, ngôn ngữ hay tôn giáo đều phải dẹp bỏ vì nó không phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa” (số 1935; Vui Mừng và Hi Vọng,29).

Dù vậy, một khía cạnh khác cũng quan trọng tương tự. Không ai hoàn toàn giống người khác; có biết bao khác biệt giữa người với người, và điều này cũng nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa. Chắc chắn là có những bất bình đẳng do bất công, phản lại tinh thần Phúc Âm (x. số 1938), nhưng cũng cần khám phá lại điều này, là trong kế hoạch của Thiên Chúa, có những khác biệt giữa con người với nhau. Trước hết, là sự khác biệt được ghi lại ngay trang đầu của Kinh Thánh: người nam và người nữ bình đẳng về phẩm giá, cả hai được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa (x. St 1,26); tuy nhiên, họ lại khác nhau trong cấu trúc thân xác và tinh thần, để bổ túc cho nhau và trợ giúp lẫn nhau (x. St 2,18), để mỗi người đóng góp phần riêng của mình vào công trình chung. Thế giới này sẽ ra sao nếu không có sự khác biệt giữa người nam và người nữ, vốn là suối nguồn làm cho nhau nên phong phú, nhưng cũng là nguyên cớ gây nên bao xung đột, vốn không phải là do sự đa dạng, cho bằng là vì thiếu sự hoán cải (x. số 1916). Giáo Hội sẽ ra sao nếu không có sự bổ túc này giữa người nam và người nữ?

Thế rồi, lại có những khác biệt do những tài năng, kinh nghiệm, tính khí, khả năng thể lý … hết sức khác nhau, rồi những khác biệt về tuổi tác, sức khỏe, kể cả đời sống đạo đức luân lý. Tất cả những khác biệt này đều đòi hỏi những tiếp cận khác nhau. Sự kiện mọi người phải góp phần vào công ích, không có nghĩa là mọi người phải góp như nhau, nhưng đúng hơn, là chúng ta phải cậy dựa vào nhau. Những khác biệt thúc đẩy sự lệ thuộc lẫn nhau, và nhắc nhở chúng ta sự lệ thuộc nền tảng vào Thiên Chúa, trước nhan Ngài, mỗi chúng ta phải trả lẽ về những “nén bạc” mình đã nhận.

Bài 24. Lề Luật

Con sẽ vui mừng trong lề luật Chúa, sẽ không quên luật Chúa đêm ngày” (Tv 119,16). Đây là lời nguyện trong Thánh vịnh dài nhất, vốn là lời ca tụng luật Chúa và diễn tả ước mong bước theo luật Chúa cách toàn diện, tuyệt đối.

Vui trong lề luật Chúa: quả là khó hiểu đối với con người ngày nay, vì trong thời hiện đại, người ta thường nhìn lề luật như cái gì khiên cưỡng, giới hạn tự do của chúng ta từ bên ngoài. Thế nhưng, Do Thái giáo năm này qua năm khác, lại mừng lễ gọi là Simchas Torah, nghĩa là Niềm Vui Lề Luật, bằng cách nhảy múa trong hội đường quanh Sách Luật, cứ như thể đang khiêu vũ với người yêu. Sở dĩ Luật Chúa bị coi như sự khiên cưỡng và ép buộc là vì tội lỗi đã làm cho chúng ta xa cách Chúa, và không thể trở về với Ngài mà không trải qua cuộc hoán cải đau đớn. Còn tự thân Luật Chúa là hạnh phúc, vui tươi, hợp lý.

Vậy ý nghĩa của lề luật là gì?

Trên đường đi tới mục đích và hạnh phúc tối hậu, khả năng riêng của chúng ta – như lý trí và ý chí, nhân đức và động lực – là không đủ. Chúng ta cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa, và sự trợ giúp đó đến “qua Lề luật hướng dẫn và qua ân sủng nâng đỡ” (GLHTCG số 1949).

Luật Chúa không phải là điều gì độc đoán, hoặc sự áp đặt của một sức mạnh mù quáng. Đúng hơn, chúng ta khám phá Luật Chúa trước hết nơi chính bản thân mình, chẳng hạn ánh sáng của lý trí. Trong ánh sáng này, “chúng ta biết điều gì phải làm và điều gì phải tránh” (Thánh Tôma Aquinô, GLHTCG số 1955).

Bằng khả năng của lý trí, chúng ta như “nghe” được lề luật, hiểu như sự diễn tả ý muốn của Đấng Tạo Hóa. Ngài đã thiết lập trật tự cho mọi sự, và ban cho chúng ta ánh sáng lý trí để nhận biết trật tự này, trong và chung quanh chúng ta.

Luật luân lý” được ghi khắc trong trái tim mỗi người, do đó là tiếng vang và sự diễn tả “Luật vĩnh cửu” của chính Thiên Chúa (số 1951): “Chắc chắn tội trộm cướp bị trừng phạt bởi Lề luật của Chúa, và bởi luật đã được ghi trong trái tim con người, luật mà chính sự gian ác cũng không xóa bỏ được” (Thánh Augustinô, GLHTCG số 1958). Chúng ta biết rằng trên khắp trái đất, mọi người đều nghe được tiếng của Luật Chúa trong trái tim họ – ít ra là trên nguyên tắc – và tiếng nói đó đã, đang và sẽ còn mãi.

Luật tự nhiên này là nền tảng cho đời sống chung của nhân loại; cho dù có những khác biệt về văn hóa và những hoàn cảnh thay đổi, luật tự nhiên là “bất biến và trường tồn qua mọi thay đổi của lịch sử” (số 1958). Dối trá mãi mãi là dối trá, dù đối với người Eskimo hay đối với chúng ta, dù ở Rôma xa xưa hay trong thế giới mới.

Điều đó không có nghĩa là luôn luôn và ở khắp nơi, luật luân lý đều được nhận thức cách sáng tỏ như nhau. Trong đời sống cá nhân hay cộng đồng, cũng có sự mất mát nào đó trong tầm nhìn về những vấn đề luân lý. Ví dụ ngày nay, nhiều người không nhìn nhận việc giết trẻ thơ trong bụng mẹ là một tội ác.

Chính vì thế, chúng ta cần đến sự mặc khải của lề luật. Mười Điều Răn tóm tắt những điều vốn đã được ghi trong tâm hồn: “Thiên Chúa đã viết trên các bảng Luật, tất cả những gì mà con người không đọc nổi trong trái tim họ” (số 1962). Sự nhắc nhở này không chỉ là ở bên ngoài: Thiên Chúa muốn đặt lề luật của Ngài ở rất sâu trong trái tim chúng ta, để luật ấy trở thành sức mạnh điều hướng ý chí của chúng ta từ bên trong.

Điều đó sẽ đến khi Đức Kitô, nhờ Chúa Thánh Thần, trở nên “luật sống của chúng ta”.

Bài 25. Ân Sủng

Thánh Phaolô thường gửi lời chào các cộng đoàn của ngài bằng những lời sau: “Ân sủng và bình an của Thiên Chúa Cha chúng ta và của Chúa Giêsu Kitô ở cùng anh em” (2 Cr 1,2).

Ân sủng là một trong những nguyên lý của đức tin. Tuy nhiên, ân sủng cũng là một trong những từ ngữ Kitô giáo bị quên lãng, hoặc ít ra bị xao nhãng.

Nhiều người cho rằng tốt hơn là đừng nên dùng từ ngữ này nữa, vì ngày nay ít người hiểu. Thế nhưng, bỏ đi một từ ngữ có tầm quan trọng như thế trong đức tin, có nghĩa là dần dần đánh mất đi chính thực tại mà từ ngữ biểu thị. Ngay từ đầu thư, thánh Phaolô cầu chúc ân sủng cho các cộng đoàn Kitô hữu, điều đó có nghĩa đây là điều quan trọng nhất.

Trước hết, từ “ân sủng” có nghĩa là điều gì đó chúng ta không tự làm ra, cũng không có quyền đòi hỏi. Trả lương xứng đáng cho nhân viên thì không phải là ban ơn cho họ, mà đúng hơn, là bổn phận của chủ theo luật công bằng. Thế nhưng quà tặng thì khác, hoàn toàn do tự ý của chúng ta. Hơn thế nữa, ân sủng có nghĩa là nhân hậu, ân huệ.

Khi chúng ta nói đến ân sủng của Thiên Chúa, là nói đến “một hồng ân, một sự trợ giúp cho không mà Thiên Chúa ban, để chúng ta đáp lại tiếng gọi của Ngài, là trở thành con cái Thiên Chúa” (GLHTCG số 1996). Định nghĩa này chỉ ra điều thiết yếu trong mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa. Thực tế là chúng ta không có bất cứ quyền gì để đòi hỏi Thiên Chúa cả. Cho nên từ ngữ “ân sủng” diễn tả sự lệ thuộc hoàn toàn của chúng ta vào Thiên Chúa.

Ngoài ra, ân sủng cũng có nghĩa là lòng nhân hậu, sự trợ giúp, ơn giải thoát. Tất cả những điều này được hứa ban cho chúng ta cách phong phú, dư đầy, không phải vì công lao chúng ta. Và không chỉ được hứa, nhưng Thiên Chúa đã thật sự ban cho chúng ta như một quà tặng. Thiên Chúa dựng nên chúng ta không chỉ cho sự sống trần thế này, nhưng cho sự sống thần linh của Ngài. Chúng ta được chia phần ở đó: “Ân sủng của Đức Kitô là một hồng ân nhưng không mà Thiên Chúa ban, làm cho chúng ta được dự phần sự sống của Ngài” (số 1999), thật sự dự phần vào sự sống của Thiên Chúa, đó chính là điều mà ân sủng thực hiện. Đời sống Kitô hữu chỉ thật sự bắt đầu khi sống trong chiều kích siêu nhiên này (số 1993), khi quà tặng của Thiên Chúa trở thành nền tảng cho đời sống chúng ta, để chúng ta không còn suy nghĩ và hành động thuần túy theo thói tự nhiên, nhưng sống bằng Thánh Thần của Đức Kitô, như những ngành nho được ghép với Cây Nho là chính Đức Kitô (số 1988).

Ân sủng không tước đoạt tự do của chúng ta, hoặc biến ta thành những con rối. Đúng hơn, ân sủng làm cho chúng ta thành những người cộng tác với Thiên Chúa, bằng cách tự do và vui tươi đáp lại những hướng dẫn và thúc đẩy nhẹ nhàng của Thánh Thần (số 2002). Ân sủng còn tác động lên cả ý muốn của chúng ta như thánh Phaolô nói: “Chính Thiên Chúa tác động đến ý chí, cũng như hành động của anh em, do lòng yêu thương của Ngài” (Phil 2,13).

Ân sủng mang nhiều hình thức. Thật hữu ích khi kể ra đây những khía cạnh khác nhau của ân sủng qua những tên gọi: ơn thánh hóa làm cho chúng ta nên công chính và nên con cái Thiên Chúa (số 2000); ơn thường sủng hiểu như trạng thái thường xuyên; các ơn hiện sủng là những can thiệp của Thiên Chúa, hoặc vào lúc khởi đầu, hoặc trong tiến trình thánh hóa. Ngoài ra còn có các ân sủng bí tích, ơn chức phận, các đặc sủng (số 2003-2004). Cùng với Thánh Têrêxa Hài Đồng, kinh nghiệm dạy chúng ta rằng: “Mọi sự đều là hồng ân”.

Bài 26. CÔNG TRẠNG

Trong bài trước, chúng ta đã nói ngày nay, người ta cảm thấy khó hiểu khi nghe đến từ “ân sủng”. Số phận của từ “công trạng” còn tệ hơn! Dù có khó khăn trong hiểu biết như thế, vẫn không nên bỏ qua. Hình như ngày nay, chúng ta quá ngần ngại khi sử dụng ngôn ngữ tôn giáo. Nhìn kỹ lại thì thấy hầu hết những từ ngữ căn bản trong đời sống đức tin, đều có gốc trong ngôn ngữ đời thường và người ta hiểu được. Trong các dụ ngôn, Chúa Giêsu thường xuyên nhắc đến những thực tại trần thế để giúp người ta hiểu về những thực tại của Nước Trời.

Chúa Giêsu thường hứa ban “phần thưởng trên Thiên đàng”: “Phúc cho anh em khi người ta nói xấu và bách hại anh em vì Thầy … vì phần thưởng của anh em trên trời thật lớn lao” (Mt 5,11-12). “Hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không thể đục khoét và trộm cắp không thể đột nhập và lấy đi. Vì kho tàng của anh em ở đâu thì lòng anh em cũng ở đó” (Mt 6,20-21).

Công trạng và phần thưởng: đây là những chuyện rất bình thường trong cuộc sống. “Thợ đáng được trả công” (Lc 10,7); nếu ai đó làm một việc đáng công, chúng ta nợ người đó một phần thưởng. Nếu công trạng không được vinh danh thì không những đó là điều vô ơn, mà còn là sự bất công (GLHTCG số 2006). Nhận xét này không chỉ đúng trong lãnh vực vật chất, mà cả cho công việc thiêng liêng nữa. Khi chúng ta nói đến “những người có công lớn”, ta hiểu đó là những người đã tận tụy phục vụ, hi sinh cho người khác, cho công ích. Chắc chắn cũng có những điều gọi là “tích trữ công trạng” trong đời này, vì thế Chúa Giêsu mới chỉ cho chúng ta thấy điều quan trọng, không phải là được tưởng thưởng bởi người đời: Hãy làm việc bố thí cách kín đáo “và Cha ngươi, Đấng ngự nơi bí ẩn, sẽ trả công cho ngươi” (Mt 6,4).

Vậy phải chăng Thiên Chúa mắc nợ chúng ta khi ta làm điều lành? Lại chẳng phải là trước mặt Chúa, chẳng có gì đáng gọi là công trạng sao? Chẳng phải là mọi ân sủng đều là quà tặng cho không sao (số 2007)? Cũng như đối với mọi vấn đề đức tin, kinh nghiệm giúp chúng ta hiểu được vấn đề ở đây. Các thánh nhìn những việc tốt lành, những điều được gọi là “công trạng”, trước hết là ơn Chúa, chứ không phải nỗ lực riêng của các ngài. Các thánh ý thức rõ ràng các ngài đến trước mặt Chúa “với hai bàn tay trắng” (Thánh Têrêxa Hài Đồng). Tất cả những gì các ngài có và làm được, đều là công trình của Thiên Chúa (số 2011).

Tuy nhiên, đặc điểm của ân sủng là làm cho chúng ta mạnh sức để cộng tác vào công trình của Chúa. Đức Kitô đã làm cho chúng ta nên bạn hữu của Ngài. Ngài trao cho chúng ta những gì Ngài đã đón nhận từ Chúa Cha. Do đó, chúng ta trở nên những người “đồng thừa tự” với Đức Kitô và có thể có được “công trạng” cùng với Ngài, trong Ngài, nhờ Ngài (số 2009). Bởi lẽ, chúng ta đón nhận mọi sự từ Ngài, nên những công trạng của chúng ta vẫn là công trình của ân sủng.

Những nhận xét này giúp cho chúng ta dễ hiểu hơn giáo huấn và thực hành của Giáo hội về Ân Xá (số 1471-1479). Đây là điều dễ bị hiểu lầm. Vì không ai chỉ sống cho mình, nên công trạng và ân sủng nơi một linh hồn cũng luôn luôn là phúc lành cho những người khác trong sự hiệp thông các thánh. “Trong sự trao đổi kỳ diệu này, sự thánh thiện của một người sinh lợi cho những người khác, vượt xa sự thiệt hại mà tội lỗi của một người có thể gây ra cho những người khác” (số 1475). “Ân Xá” có nghĩa là những công trạng của Đức Kitô và các thánh của Ngài được ban cho chúng ta, những người đang sống hay đã chết, chữa lành những thương tích tội lỗi trong chúng ta. Hãy quan tâm hơn nữa đến sự liên đới này, cho chính mình cũng như cho người khác.

Bài 27. Được kêu gọi nên thánh

Trong những bài qua, chúng ta đã bàn đến những yếu tố trong luân lý Kitô giáo mà các nhà thần học gọi là Luân lý cơ bản. Sách Giáo Lý sắp xếp những yếu tố này theo hướng trình bày của Thánh Tôma Aquinô, cũng như của Vatican II.

Khởi đi từ cùng đích tối hậu của con người là hạnh phúc chỉ tìm thấy được nơi Thiên Chúa, trước hết chúng ta đã xem xét những hành vi và thái độ nhân linh, qua đó, trong tư cách cá nhân và trong cộng đoàn, chúng ta cố gắng đạt tới cùng đích tối hậu, cũng như đạt được những mục đích trung gian cách thích hợp về mặt đạo đức. Tuy nhiên, điều quan trọng trong sứ điệp Kitô giáo, là chúng ta không thể đạt đến những mục đích riêng cũng như cùng đích tối hậu bằng sức riêng của mình. Không có sự trợ giúp của Thiên Chúa, cả bên trong lẫn bên ngoài, không có lề luật và ân sủng của Ngài, chúng ta sẽ bị lạc lối. Đây là chân lý đức tin. Khi các môn đệ đưa ra câu hỏi khó: “Vậy thì ai sẽ được cứu độ?”, Chúa Giêsu trả lời: “Đối với con người thì không thể, nhưng đối với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể” (Mt 19,25-26). Đồng thời, chân lý đức tin khác nữa, là “Thiên Chúa mong muốn mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tm 2,4). Hơn thế nữa, Thiên Chúa muốn rằng qua Người Con của Ngài, “mọi người được trở nên nghĩa tử trong Thánh Thần và được thừa hưởng đời sống hạnh phúc” (GLHTCG số 1).

Khi đưa ra lời kêu gọi sống thánh thiện, Công Đồng không nói điều gì khác hơn (số 2013). Mục đích của đời sống làm người, là sự sống thần linh. Chúng ta tìm được sự viên mãn sâu xa nhất, không phải ở nơi mình, nhưng nơi Thiên Chúa. Chỉ nơi Thiên Chúa, chúng ta mới là chính mình cách trọn vẹn. Khi đó, mệnh lệnh Chúa Giêsu ban bố, sẽ nên trọn: “Hãy nên hoàn thiện như Cha anh em ở trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).

Thế nhưng thánh thiện là gì? Sự thánh thiện bắt đầu khi có sự cộng tác giữa hành động của con người với hoạt động của Thiên Chúa, khi chúng ta làm theo Lời Chúa và để cho Ngài hướng dẫn. Việc đó diễn ra bằng cách nào? Thưa, bằng tình yêu được sống ngày này qua ngày khác. Claire de Castelbajac – một khuôn mặt sáng ngời, qua đời khi mới 21 tuổi, ngày 22-1-1975, và đã trở nên mẫu mực cho nhiều bạn trẻ - viết: “Thánh thiện là yêu mến cuộc sống hoàn toàn cho Chúa và với Chúa, nhờ ân sủng và sức mạnh của Ngài”. Không có con đường nào vươn đến sự thánh thiện ngoài nẻo đường tình yêu, và nẻo đường đó mở ra cho hết mọi người, trong mọi hoàn cảnh đời sống, mọi lứa tuổi. Đây là “cơ may” bình đẳng trong Hội Thánh. Chỉ bằng con đường này, Hội Thánh mới canh tân chính mình. “Các thánh đã luôn luôn là nguồn cội của sự canh tân trong những thời điểm khó khăn nhất của lịch sử Hội Thánh” (Gioan Phaolô II).

Nẻo đường thánh thiện, lối sống cụ thể tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân trong mọi hoàn cảnh, sẽ dẫn chúng ta đến cánh cửa hẹp của thập giá. “Không có sự thánh thiện nào mà không đòi hỏi sự từ bỏ và chiến đấu thiêng liêng” (GLHTCG số 2015). Tuy nhiên, chúng ta không bước vào cuộc chiến này với sức riêng của mình; toàn bộ lịch sử Cựu Ước dạy chúng ta rằng, ngay khi dân Chúa khám phá ra sự yếu đuối của mình, thì cũng cảm nghiệm được cánh tay đỡ nâng của Thiên Chúa. Thánh Phaolô cũng diễn tả kinh nghiệm tương tự: “Chính lúc tôi yếu, lại là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,10).

Nên thánh, không có nghĩa là làm những chuyện phi thường, nhưng đúng hơn là để cho Chúa Kitô không ngừng nói với ta: “Ơn Cha đủ cho con vì sức mạnh của Cha nên trọn nơi sự yếu đuối của loài người” (2 Cr 12,9). Vì thế, không ai trong chúng ta được phép nói rằng thánh thiện là chuyện quá cao xa đối với tôi.

Bài 28. HUẤN QUYỀN VÀ LUÂN LÝ

Trước khi bàn đến Mười Điều Răn trong phần tới, chúng ta hãy suy nghĩ về một vấn đề thường được bàn cãi ngày nay: Phải chăng công việc của Hội Thánh là đưa ra những cấm đoán trong những vấn đề về luân lý? Sách Giáo Lý bàn về vấn đề này ở phần kết khi trình bày về luân lý Kitô giáo (số 2030-2051).

Về vấn đề này, có những câu trả lời đối nghịch nhau. Trong nhiều lãnh vực, Hội Thánh (hiểu là Huấn quyền, nhất là quyền giáo huấn của Đức giáo hoàng) bị tố cáo là can thiệp quá mức. Đàng khác, người ta lại mong chờ Hội Thánh phải là một “thẩm quyền về luân lý”.

Có rất nhiều ví dụ, cả trong lịch sử lẫn trong hoàn cảnh hiện nay của Hội Thánh, cho thấy thiếu sự khả tín về luân lý, đạo đức. Đồng thời, trong lòng Hội Thánh vẫn đang có nhiều nỗ lực canh tân đổi mới. Tại sao chúng ta lại ít tin tưởng như thế khi nói đến sức mạnh luân lý của Hội Thánh? Ngay giữa cuộc chiến tranh tàn khốc, Đức Piô XII đã nói đến điều này: “Hai ngàn năm qua, trong linh hồn Hội Thánh, vẫn có một tinh thần sống động đã và đang thúc đẩy nhiều người sống đức ái đến mức anh hùng – các đan sĩ cày sâu cuốc bẫm, những nhà giải phóng nô lệ, những người chữa lành các bệnh nhân, các sứ giả mang đức tin, văn minh và khoa học đến cho mọi thời đại và mọi dân tộc, nhằm kiến tạo những điều kiện xã hội có thể mang lại cho mọi người đời sống xứng với phẩm giá con người và phẩm giá Kitô hữu” (GLHTCG số 1942).

Do đó, Hội Thánh “dạy dỗ về luân lý” trước hết không phải bằng những lời rao giảng và hệ thống hóa học thuyết, nhưng bằng chứng tá đời sống (số 2044). “Hội Thánh được tăng số, lớn lên và triển nở bằng sự thánh thiện của các tín hữu” (số 2045). Lời nói bay đi, gương bày lôi cuốn. Như vậy chưa đủ sao? Vậy thì còn cần gì đến Huấn quyền? Tại sao lại có Huấn quyền? Thưa, không vì lý do nào khác hơn lý do trong Cựu Ước đã phải viết ra Lề luật và những điều răn của Chúa: “Thiên Chúa đã viết trên các bảng Luật tất cả những gì mà con người không đọc được trong trái tim họ” (Thánh Augustinô, số 1962). Tự nó, ánh sáng của lý trí đủ để soi sáng và tiếng nói lương tâm nói đủ rõ ràng những điều răn của Thiên Chúa. Thế nhưng nhận thức và ý chí của chúng ta đã bị suy yếu vì tội lỗi. Hội Thánh không công bố một thứ luân lý mới, nhưng đúng hơn là nhắc nhở chúng ta những nguyên tắc đạo đức có giá trị vững bền (số 2036). Chính vì thế mà Hội Thánh ngỏ lời không chỉ với các tín hữu nhưng là với mọi người, khi bàn về các vấn đề đạo đức y khoa, kinh tế, truyền thông xã hội.

Trong tất cả những vấn đề này, luôn luôn vẫn là vấn đề về con người và hạnh phúc, phần rỗi của họ. Thế nên như Đức Phaolô VI diễn tả, Hội Thánh là “chuyên viên về nhân loại”. Hội Thánh cũng được trao cho Phúc Âm, nghĩa là Tin Mừng cứu độ của Đức Kitô. “Luật Mới” này (số 1965) được viết trong trái tim con người khi chúng ta để cho Thánh Thần hướng dẫn. Để chúng ta khỏi lạc đường, Đức Kitô đã muốn Hội Thánh của Ngài không bao giờ bước đi mà không có bản chỉ đường đúng đắn. Do đó, tính bất khả ngộ trong quyền giáo huấn của Đức giáo hoàng cùng với các giám mục – liên quan đến những gì thiết yếu và cần thiết cho đời sống đức tin – giúp cho Hội Thánh luôn bước đi trên đường của Đức Kitô, con đường thường bị che mờ vì thói thế gian và những ham muốn của chúng ta (số 2034-2035). Vì thế cũng không lạ gì khi Đức giáo hoàng thường bị coi là “dấu chỉ mâu thuẫn”, nhất là trong những vấn đề về luân lý.