Thứ Sáu ngày 23 tháng 2 năm 2018

Chúa Giêsu và Phêrô
SIMON PETER

Prepared for internet by Msgr. Peter Nguyen Van Tai
Radio Veritas Asia, Philippines

 

Lời Nói Ðầu

Ðây là món quà nhỏ tôi xin gởi đến quý vị và các bạn trong dịp tôi mừng một kỷ niệm quan trọng của đời linh mục trong năm 1998 nầy.

Tập sách không do tôi viết ra, mà là một phóng tác dựa theo một tập sách có tuổi đời của nó gần bằng tuổi đời tu của tôi. Tập sách đã được phát hành năm 1959, mà tôi vào tiểu chủng viện Thánh Philiphê Minh Vĩnh Long, tháng 9 năm 1957, lúc mới 10 tuổi. Ðó là tập sách của Ðức Ông Georges Chevrot bằng tiếng Pháp, có tựa đề là SIMON PIERRE. Bản dịch tiếng Anh, có tựa là SIMON PETER, được xuất bản tại Philippines, năm 1974, (Sinag-Tala, 1974) cũng có tuổi đời gần bằng tuổi chức linh mục của tôi. Tôi được chịu chức linh mục tại quê nhà ở Việt Nam ngày 19 tháng 12 năm 1973. Trước đó, vào ngày 11 tháng 4 năm 1973, tôi lãnh chức Phó Tế, "dấn thân trọn vẹn cho Chúa để phục vụ trong Giáo Hội". Vì thế, trong năm 1998, từ ngày 11 tháng 4 cho đến 19 tháng 12, là thời gian khá đặc biệt đối với tôi, để nhớ lại giai đoạn ân sủng đầu tiên của đời dấn thân trọn vẹn cho Chúa. Thánh Phêrô là thánh bổn mạng của tôi. Vì thế, tôi đã chọn tập sách của Ðức Ông Georges Chevrot về Thánh Phêrô, để phóng tác, trước hết là cho chính bản thân tôi suy niệm và xét mình. Tôi ao ước tương quan của tôi với Chúa bắt chước được phần nào tương quan mẫu giữa Chúa và Phêrô ngày xưa. Việc chọn tập sách củ của Ðức Ông Georges Chevrot để phóng tác sang tiếng Việt, là một chọn lựa của tình cảm, nhiều hơn là do phán đoán trí thức. Giờ đây, đúng ngày 11 tháng 04 năm 1998, tôi xin trao gởi tập sách được phóng tác nầy, như món quà nhỏ cho quý vị và các bạn, để xin cầu nguyện cho tôi và giúp tôi phục vụ Chúa và anh chị em. Hy vọng tập sách phóng tác nầy được đón nhận với thiện cảm và đồng cảm của con tim, hơn là với phán đoán trí thức. Những gì hay trong tập sách là của tác giả Ðức Ông Georges Chevrot. Những gì sai, trái, không đạt được ý, đều là do tôi chưa lĩnh hội hết những ý tưởng hay ho của tác giả. Nếu tập sách phóng tác nầy giúp ích được cho ai đó, thì tôi xin cảm tạ Ơn Chúa. Sống và làm việc bổn phận xa nhà, xa những bạn lớp ngày xưa ở Tiểu Chủng Viện Thánh Philiphê Minh Vĩnh Long, và sau đó ở Giáo Hoàng Học Viện thánh Piô X, Ðà Lạt, Việt Nam, tôi xin mượn tập sách nầy và phương tiện Internet, để bắt liên lạc lại nếu được. Tôi không quên ơn những ân nhân và những bậc thầy đã huấn luyện tôi từ những năm đầu tiên ở bậc tiểu học cho đến những năm cuối cùng ở đại học. Nhiều người đã qua đời, vài vị còn sống, và tôi rất hy vọng được gặp lại trong năm nay. Tôi nhớ ơn quý Ðức Cha Vĩnh Long, quý cha giáo sư, quý vị ân nhân và bạn bè đã cầu nguyện, khuyến khích, dạy dỗ, và nâng đỡ, và nhất là cậu tôi, linh mục Phêrô Nguyễn văn Tự, hiện đang sống tại Pháp. Dĩ nhiên công ơn sinh và dưỡng của cha mẹ, và sự hy sinh của anh chị em cháu trong gia đình tôi, là điều quý báu không thể bỏ quên hay làm mất đi được. Xin tất cả cùng hiệp ý với tôi cảm tạ Thiên Chúa và xin thương cầu nguyện cho tôi luôn. Xin đa tạ.

 

 

I.
Khởi Ðầu Ơn Gọi

Tác giả phúc âm theo thánh Gioan nói về ơn gọi của thánh Phêrô một cách ngắn gọn. Anh của Phêrô là Anrê cùng với tác giả của phúc âm thứ tư nầy, cả hai lúc đó còn là môn đệ của thánh Gioan Tiền Hô, nhưng khi nghe vị Tiền Hô chỉ cho biết Chúa Giêsu là ai: "Ðây là Chiên Thiên Chúa", thì cả hai liền đi theo Chúa Giêsu ngay. Chúa quay lại hỏi hai nguời: các anh tìm gì ? Họ đáp: Thưa Thầy, Thầy sống ở đâu? Chúa Giêsu trả lời: Hãy đến mà xem.

Thánh Gioan không thể nào quên được giây phút quyết định nầy trong đời. Ngài nhớ rõ chi tiết giờ khắc lúc đó, và ghi lại trong phúc âm: lúc đó là vào 4 giờ chiều. Cả hai sống với Chúa suốt thời gian còn lại của buổi chiều không thể nào quên được đó.

Chúng ta không bao giờ có thể biết được nội dung cuộc trao đổi lúc đó giữa Chúa Giêsu và hai đồ đệ của Gioan. Nhưng có một điều chắc chắn, là sau cuộc gặp gỡ vào buổi chiều đó, hai người ra đi lòng đầy xác tín và vui mừng, đến độ Anrê chia sẻ liền với Phêrô, em mình rằng: Chúng tôi đã gặp Ðấng Thiên Sai (Ðấng Messia). Invenimus Messiam.

Ðó là những lời đầy nhiệt tình và xác tín. Ðấng Thiên Sai, Ðấng Cứu Rỗi mà toàn dân Israel đang mong đợi từ bao thế kỷ, nay được tỏ bày cho họ. Họ được gặp và trao đổi với ngài. Chắc rằng, là thành phần của dân tộc Israel, Anrê và Gioan đã được cha mẹ dạy phải cầu nguyện hằng ngày để xin Thiên Chúa Tối Cao sai xuống Ðấng Cứu Thế, Ðấng giải phóng dân tộc. Và họ cảm nghiệm rõ ràng rằng lời cầu nguyện của họ đã được chấp nhận. Ðấng Thiên Sai đã đến. Họ đã nhìn thấy tận mắt, đã được gặp và sống với Ngài, được nghe Ngài nói. Họ đi tìm Sự Thật để sống, và họ xác tín là đã gặp được Sự Thật. Họ khao khát tìm Chúa, và họ xác tín là đã gặp được Ngài: "Chúng tôi đã gặp được Ðấng Messia. Invenimus Messiam.

Niềm xác tín đã thôi thúc họ. Họ không còn có thể giữ lại cho riêng mình nữa. Họ lấy làm sung sướng mà chia sẻ niềm hạnh phúc đang cảm nghiệm. Mỗi người đều có một người em cùng làm nghề chài lưới, cùng làm đồ đệ của Gioan Tẩy Giả. Cả hai mau mắn ra đi tìm gặp em mình, để chia sẻ niềm xác tín: Chúng tôi đã gặp được Ðấng Thiên Sai rồi. Simon, em Anrê, không chờ đợi thêm phút nào nữa. Nghe theo lời Anrê, Simon mau mắn đến gặp Chúa Giêsu. Và, như chúng ta vừa đọc câu phúc âm trên đây: Chúa Giêsu chăm chú nhìn thẳng vào Simon. Có thể Phêrô, và những đồ đệ khác nữa, sẽ không bao giờ có thể quên được cái nhìn của Chúa Giêsu, trong lần gặp gỡ đầu tiên nầy. Chúa Giêsu chăm chú nhìn thẳng vào Simon. Ngài biết rõ tận cỏi thâm sâu tâm hồn Phêrô. Có thể nói, nơi con người Phêrô, Chúa Giêsu lúc đó đã nhìn thấy toàn thể Giáo Hội cho đến tận cùng lịch sử. Chúa Giêsu không đòi hỏi Phêrô lúc đó phải kể lại cuộc đời quá khứ của mình. Chúa đã biết rõ Phêrô rồi. Chúa đã chờ đợi giây phút gặp gỡ quyết định với Phêrô. Chúa nói với Phêrô: Hỡi Simon, con của Ông Gioan, nay Ta đặt tên mới cho con là KêPha. Như Chúa đã biết rõ quá khứ của Phêrô, thì Chúa cũng biết rõ tương lai của Ông. Là thành phần của dân Chúa, Phêrô hiểu rõ hơn ai hết lời nói và hàng động Chúa khi đặt tên lại cho Ông. Phêrô nhớ lại những biến cố lịch sử của dân Chúa: Thiên Chúa đã đặt tên mới cho Ông Abraham, khi trao cho ông sứ mạng làm người Cha của muôn dân đông đúc. Thiên Chúa đã đổi tên Ông Giacóp, thành Israel, có nghĩa là "Ðấng mà Thiên Chúa không thể thắng vượt được". Giờ đây, Chúa Giêsu thực hiện cùng một cử chỉ "đặt tên mới" cho Phêrô. Chúa biết rõ việc ngài làm. Nhưng Phêrô có thể thắc mắc: một người chài lưới như ông mà được Chúa trao cho sứ mạng nào đây? "Từ nay, con sẽ được gọi là Kê-pha, nghĩa là Phêrô, là Ðá Tảng vững chắc".

Trước khi được gọi, Phêrô là "Simon, con Ông Gioan", là một người Do Thái ngoan đạo, trung thành với giáo huấn của cha ông, sống nghề chài luới như nhiều nguời khác. Nhưng giờ đây, qua việc đặt tên mới, Phêrô được cho biết về chương trình của Thiên Chúa cho cuộc đời của ông. Phêrô sẽ không kết thúc cuộc đời trên trần gian tại thành phố nhỏ bên bờ biển hồ Galilêa nữa. Thiên Chúa đã đổi tên cho Phêrô. Ngài sẽ đổi mới cuộc đời ông, và xử dụng cuộc đời đó theo chương trình Ngài muốn: "Con sẽ được gọi Kêpha, có nghĩa là Phêrô, là Ðá Tảng" trên đó, qua bao thế hệ, hàng triệu người sẽ được nâng đỡ. Vocaberis Cephas. Con là Ðá, trên viên đá nầy, Ta sẽ xây Hội Thánh Ta, và sức mạnh của Hỏa Ngục sẽ không làm gì hại được con.

Tác giả phúc âm theo thánh Gioan, đã không ghi lại những phản ứng của Phêrô trong giây phút được gọi đó, mà chỉ chú ý đến những Lời Chúa nói. Chúa nhìn thấy trước tương lai của Phêrô, và thánh hiến tương lai đó. Có thể nói là Chúa Giêsu đã chiếm hữu toàn bộ cuộc đời của Phêrô. Noi gương thánh Phêrô, chúng ta hãy đến với Chúa, để cho Chúa thanh luyện, đổi mới và làm chủ cuộc đời chúng ta, theo thánh ý Ngài.

 

II.
Bản Chất Ơn Gọi

Ðó là hành động đặc biệt của Thiên Chúa. Ngài đặt tên chúng ta. Tuyển chọn chúng ta. Kêu gọi chúng ta đến thi hành một trách vụ. Ngài chọn cho chúng ta một trách vụ để thi hành. Ðó là bản chất của Ơn Gọi. Thiên Chúa là đấng có sáng kiến trước. Những tạo vật khác không có trí khôn, không có tự do như con người, cũng nhận lãnh từ Thiên Chúa một vai trò để thi hành, nhưng thi hành một cách thiết yếu theo quy định không thay đổi. Trong khi đó, thì con người, vì có trí khôn và tự do, nên con người chu toàn vai trò được trao cho, một cách có ý thức và tự do. Hơn nữa, để giúp thi hành vai trò được trao phó cho, Thiên Chúa ban cho con người những tài năng riêng. Nhưng ngài không ban những tài năng như đã được phát triển trọn vẹn rồi, mà là những tài năng khả thể, cần được phát triển thêm nữa. Con người có bổn phận vun trồng những tài năng đó, và phát triển chúng thêm duới mặt trời ân sủng của Ngài. Trong giây phút gặp Chúa, Simon đã được Chúa đặt tên mới là Phêrô. Nhưng điều nầy không có nghĩa là tánh tình của Simon được tự động thay đổi trong phút chốc đó. Con người mà Chúa gọi là Ðá Tảng, là Phêrô, trên đó Giáo Hội Chúa được thiết lập, có lúc đã là Ðá cản đường, hơn là Ðá Tảng. Khi kêu gọi chúng ta thực hiện một trách vụ, Thiên Chúa không hủy bỏ khả năng hoạt động của chúng ta. Ngài khích động phát triển khả năng đó. Thiên Chúa kêu gọi. Con người cần đáp lời. Nhờ bởi bí tích Rửa Tội, chúng ta tất cả trở thành điều mà thánh Phaolô Tông đồ gọi là "người thánh" "vocati sancti". Chúng ta được gọi là thánh. Nhưng không phải tự động thánh, ipso facto, mà được gọi tiến đến sự thánh thiện trọn đầy hơn. Simon trở thành Phêrô, chỉ với giá phải trả là những cố gắng canh tân mỗi ngày một hơn. Thiên Chúa không bao giờ làm giùm cho chúng ta, điều mà chúng ta có thể làm. Chắc rằng Ngài có thể dùng quyền năng ngài mà biến đổi chúng ta ngay, không cần chúng ta cộng tác vào đó, bởi vì Ngài là Ðấng tạo hóa. Nhưng nếu làm như vậy, thì đó là việc tạo dựng chớ không còn là ơn gọi nữa. Ơn gọi luôn có liên hệ đến việc đáp trả tự do của con người trước tác động sáng tạo của Thiên Chúa. Thiên Chúa hỏi mỗi nguời chúng ta: Con có muốn bước vào sự sống hay không? Con có muốn theo ta hay không? Con có muốn nên trọn lành hay không? Con có muốn, con có muốn hay không? Thiên Chúa không áp đặt, ngài chỉ đề nghị. Khi Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ vật thể không có trí khôn, Ngài chỉ ra lệnh. Nhưng vì đã tạo dựng con người có trí khôn và tự do, nên Thiên Chúa phải kính trọng nhân cách con nguời. Ngài mời gọi. Ngài hỏi ý: Con có muốn điều nầy, con có muốn điều nọ, hay không? Con có muốn phục vụ anh chị em, và làm vinh danh Thiên Chúa hay không?

Ngoài ra, chúng ta cần nhớ thêm rằng: Cũng như Thiên Chúa không thể thay đổi chúng ta, nếu chúng ta không muốn, thì cũng thế, chúng ta không thể tự mình canh tân mà không cần có Thiên Chúa. Ơn gọi luôn luôn đòi hỏi sự cộng tác giữa Thiên Chúa và con người. Thiên Chúa trợ giúp để chúng ta thay đổi. Không phải chỉ trợ giúp bằng những ân sủng tác động trong cỏi thâm sâu tâm hồn chúng ta, mà Ngài còn làm cho các biến cố, kể cả những biến cố tiêu cực, hậu quả của việc xử dụng xấu sự tự do mà Thiên Chúa ban cho con người, (ngài còn làm cho những biến cố đó) trở nên hữu ích, phục vụ cho điều Ngài chờ đợi chúng ta thi hành. Ngài đã đối xử như vậy đối với Simon-Phêrô. Ngài dùng những sai lầm, những lỗi phạm, những bất cẩn của Phêrô, để huấn luyện và chuẩn bị Phêrô một cách tốt hơn cho sứ mạng đã lãnh nhận. Những sơ sót, những lỗi phạm của chính chúng ta là những bài học giúp chúng ta nhìn thấy rõ hơn những bổn phận cần làm mà chưa làm, và giúp chúng ta trở thành điều mà Chúa mong ước chúng ta trở thành. Chúng ta học kinh nghiệm từ những sơ sót, những lỗi lầm của mình. Quá khứ của chúng ta là kho tàng tích chứa những lời tiên tri loan báo tương lai.

Cuối cùng, sự trợ giúp mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta để chu toàn trách vụ ngài dành cho chúng ta, sự trợ giúp đó cũng có mặt trong chính trách vụ chúng ta thi hành. Ðây là điều mà chúng ta thường gọi là "ân sủng của bậc sống", "ân sủng của trách vụ". Vì thế, chúng ta hãy xác tín rằng: khi một trách vụ nào đó đến từ Thiên Chúa, chớ không phải từ tham vọng riêng của cá nhân, thì trách vụ đó có mang theo những gì chúng ta cần, để chu toàn nó. Thiên Chúa an bài sao cho đời sống có thể cung cấp cho chúng ta những phương thế để chu toàn tốt đẹp chính đời sống đó. Khi con người dấn thân chu toàn trách vụ tốt, thì trách vụ tốt nầy tác động biến đổi con người, làm cho con người trở nên tốt hơn. Khi con người dấn thân thi hành trách vụ Kitô, trách vụ Chúa trao phó cho, thì trách vụ Kitô nầy làm cho con người trở nên thánh thiện. Nhìn vào cuộc đời của thánh Phêrô, chúng ta thấy là yếu tố con người Simon từ từ nhường chổ cho con người Phêrô, cũng như thánh Gioan Tẩy Giả vui mừng trở nên nhỏ đi, ngỏ hầu Chúa Giêsu lớn lên trong tâm hồn con nguời. Tôi phải nhỏ lại và Chúa phải lớn lên. Thánh Phaolô vui mừng vì không con làm chủ chính mình nữa, mà là Chúa Giêsu: Không còn là tôi sống, nhưng là chính Chúa Kitô sống trong tôi.

Ðó là lý tưởng phát triển trọn vẹn cuối cùng của một cuộc đời được Chúa gọi.


 

III.
Hãy vâng lời Chúa luôn mãi

Sau lần gặp gỡ đầu tiên và được Chúa Giêsu kêu gọi, Simon-Phêrô cùng với các đồ đệ khác nữa đã theo Chúa trên đường truyền giáo. Nhưng rồi có lúc, các ngài, trong đó có Phêrô, trở về lại với cuộc sống thường nhật tại biển hồ Galilêa. Và phúc âm theo thánh Luca, nơi chương 5, đã ghi lại một biến cố đầy ý nghĩa khác trong lịch sử ơn gọi của Simon-Phêrô. Chúa Giêsu lại đến với Phêrô trong hoàn cảnh nói được là đang gặp thử thách. Sau khi đã giảng dạy cho dân chúng từ trên thuyền của Phêrô, Chúa Giêsu ra lệnh: Hãy ra khơi thả luới. Một mệnh lệnh khó nghe, vì nhiều lý do: Chúa Giêsu không phải là người chuyên nghề đánh cá như Phêrô và các bạn đồng nghiệp. Thời điểm lúc đó vào giữa trưa làm cho mệnh lệnh ra khơi đánh cá càng khó nghe hơn nữa, vì không ai đi đánh cá vào giờ nầy nữa cả. Chúa Giêsu ra lệnh ngược đời. Thêm vào đó, còn có lý do thứ ba: Phêrô và các bạn đồng nghiệp đã đánh cá suốt đêm, vào thời điểm thuận lợi nhất theo kinh nghiệm con người, nhưng đã không bắt được con cá nào. Thế nhưng, Chúa Giêsu ra lệnh: Hãy ra khơi và thả lưới. Có thể tin vào Chúa Giêsu được không? Phêrô phản ứng bộc trực như tánh tình của ông: Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm rồi mà không bắt được con cá nào cả. Phêrô phản đối mệnh lệnh ngược đời của Chúa Giêsu. Nhưng có thể một sức thu hút lạ lùng nào đó tác động trên Phêrô. Có thể là Ông nhớ lại một biến cố lạ lùng, ngoài dự liệu của con người, đã xảy ra và đã được ông chứng kiến tại Cana. Ðó là biến cố Chúa Giêsu ra lệnh ngược đời: đem nước đổ vào các bình chứa, trong khi gia đình đải tiệc đang lúng túng vì thiếu rượu cho khách. Linh tính có thể nhắc Phêrô: Tin vào Chúa thì vẫn hơn. Biết đâu được. Phêrô bèn nói tiếp: Nhưng vâng theo Lời thầy, chúng con sẽ thả lưới. Phêrô ra hiệu cho các bạn đồng nghiệp làm theo lời Chúa truyền, mặc dù không hiểu được mệnh lệnh đó sẽ như thế nào. Chúa Giêsu có lý do riêng để ra lệnh như thế cho Phêrô. Ðã đến lúc Chúa muốn Phêrô và các bạn dấn thân nhiều hơn nữa. Ðã đến lúc Chúa Giêsu xây dựng nền tảng cho Giáo Hội mà Chúa sẽ thành lập, và các tông đồ sẽ phải dấn thân trọn vẹn cho Nước Chúa trong hoàn cảnh nói được là không thuận tiện: giữa thế giới đang nghĩ đến vật chất, quyền lực, tiền của giàu sang mà thôi. Các ngài là những con người tầm thường, không văn hóa cao siêu, sống nghề chài lưới, thế nhưng phải rao giảng Nước Chúa cho những vị lãnh đạo khôn ngoan của Hội Ðường Do Thái, cho những vị lãnh đạo đầy uy quyền và tiền của của đế quốc Roma. Chúa Giêsu sai các ngài ra đi thi hành công tác giữa môi trường không thuận lợi như thế, mà trong tay không có phương thế nào khác hơn là sự vâng lời, hy sinh và tình yêu thương đối với Chúa. Nhìn theo bình diện nhân loại, thì quả việc làm của Chúa, mệnh lệnh của Chúa, là thật khó nghe, nếu không muốn nói là vô nghĩa, điên khùng. Chúa sai các tông đồ, sai Phêrô ra đi thực hiện một sứ mạng không thể thực hiện được bằng những sức lực và phương thế của con người. Và đúng vậy, sứ mạng Chúa trao cho Phêrô và cho các tông đồ, không thể nào thực hiện bằng sức lực và phương thế con người. Chúa muốn chuẩn bị Phêrô và các tông đồ hiểu được điều nầy, khi Chúa ra lệnh cho các ông hãy ra khơi đánh cá, vào giữa trưa. Simon Phêrô đã thoáng thấy được giải đáp cho thách thức mới: Vâng Lời Thầy. Cần thực hiện công việc theo ý Chúa. Ðó là cách duy nhất. Thi hành sứ mạng Chúa trao cho, với phương tiện của Chúa, theo lệnh của Chúa.

Hãy ra khơi. Chúa mời gọi, ra lệnh. Bí quyết để thành công là: Vâng Lời Thầy, vâng theo lệnh truyền của Chúa. Chúa không mời gọi một lần rồi thôi, bỏ mặc chúng ta làm sao cũng được. Chúa vẫn tiếp tục mời gọi, vẫn tiếp tục chỉ đường. Nhất là trong lúc khó khăn, khủng hoảng, gặp chuớng ngại, thì người đồ đệ lại càng phải vâng phục Lời Chúa nhiều hơn nữa. Hãy ra khơi, hãy trở về lại với công việc, hãy bắt đầu lại, theo lệnh Chúa truyền: Vâng lời Thầy.

Hãy bắt đầu lại, không phải với những lỗi lầm như trước, nhưng với kinh nghiệm đã trải qua, vượt qua những lỗi lầm đầu tiên, sửa chửa lại những gì còn thiếu sót, nhưng nhất là phải Vâng Lời Chúa Truyền. In verbo tuo. Và cần kiên trì trong dốc quyết, với hết sức can đảm có thể. Vâng lời Thầy, Vâng Lời Chúa truyền dạy, đây là bí quyết duy nhất để chúng ta vượt qua được cơn cám dỗ ngã lòng, và muốn chạy trốn trước những thách thức của ơn gọi. Thiên Chúa sẽ thực hiện những điều kỳ diệu nhờ qua chúng ta, khi chúng ta kiên trì "vâng lời Chúa", không quan tâm đến điều con người phê phán.Vâng lời Chúa là giải pháp, là đủ. Hãy để cho quyền năng của Chúa được thể hiện trong sự yếu hèn của chúng ta. Khi chúng ta cảm thấy mình yếu đưối, thì lúc đó chúng ta cần vâng nghe lời Chúa nhiều hơn nữa, để quyền năng Chúa được thể hiện. Ðó là bài học của Phêrô, của Phaolô.

 

IV.
Tác Vụ Tông Ðồ

Biến cố lạ lùng bắt được nhiều cá vừa xảy ra trước mắt Simon-Phêrô và các bạn đồng nghiệp. Kinh ngạc, Simon Phêrô sấp mình ôm chân Chúa Giêsu và nói: "Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi ."

Ðó là những lời nói lên thực thể con người của Phêrô lúc đó. Ân huệ Chúa vừa ban cho (phép lạ bắt được nhiều cá), không làm cho Simon-Phêrô tự phụ hãnh diện, ngược lại nó làm cho Ông trở nên lo sợ, vì không hiểu được tại sao một con người yếu đuối, có những tật xấu, những tội lỗi như ông, mà lại được Chúa ban cho đặc ân như vậy. Hơn bao giờ hết, ngay lúc đó, Phêrô ý thức rõ ràng về thân phận yếu hèn tội lỗi của mình. Giám Mục Bourdaloue, trong "bài giảng ngày lễ Thánh Gioan Tẩy Giả", đã nói như sau: "Không có gì làm cho những vị thánh trở nên khiêm tốn hơn là những chúc lành và ân sủng Thiên Chúa ban cho họ.. Họ lo sợ vì nhìn thấy những tội lỗi của mình, nhưng đồng thời họ kinh ngạc vì nhìn thấy những ân sủng Chúa tiếp tục ban cho, và lo sợ rơi vào tình trạng lạm dụng những ơn Chúa ban". Tâm tình của Simon-Phêrô lúc đó được thể hiện qua hành động Ông sấp mình ôm lấy chân Chúa Giêsu. Nguyên văn của phúc âm theo thánh Luca, không nói là Phêrô sấp mình trước Chúa Giêsu, trong tư thế còn xa cách Nguời. Nhưng nguyên văn nói là "sấp mình xuống ôm lấy chân Chúa Giêsu ." Simon Phêrô vừa thốt lên lời: Lạy Chúa, xin hãy xa con, vì con là kẻ tội lỗi. Nhưng đồng thời Phêrô lại "ôm lấy chân Chúa", như thể không muốn rời xa Chúa. Ðây là một sự hòa hợp giữa lòng khiêm tốn và tình yêu mến Chúa, đặc điểm của những linh hồn sốt sắng yêu mến Ngài. Chúng ta hằng ngày cũng được dịp trải qua kinh nghiệm sống nầy trong lúc chuẩn bị rước Chúa trong thánh lễ Misa. Chúng ta thưa cùng Chúa: Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà linh hồn con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con được lành sạch. Chúng ta thú nhận mình không xứng đáng, nhưng vẫn tiến lên hướng về Chúa, muốn đến với Chúa, chớ không chạy trốn Ngài. Như Simon Phêrô, chúng ta là những kẻ tội lỗi. Nhưng Chúa không chối từ chúng ta, vì Chúa đến là để kêu gọi những kẻ tội lỗi trở lại, để cứu rỗi họ. Và chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đáp lại tình yêu khiêm tốn của Simon Phêrô như thế nào rồi. Chúa trấn an Phêrô: Ðừng sợ, từ nay, con sẽ là kẻ lưới bắt con người. Chúa tin tưởng vào Phêrô. Chúa tin tưởng vào mỗi người chúng ta, thì có lý do nào chúng ta lại ngã lòng, bỏ trốn, tránh né?

Chúa nói với Phêrô: Ðừng sợ. Phép lạ con nhìn thấy hôm nay về việc bắt được nhiều cá như vậy, chỉ mới là khởi đầu cho một phép lạ kỳ diệu hơn, thay đổi trọn cả vận mệnh cuộc đời của con, vì từ nay Con sẽ là kẻ lưới bắt cá con người. Con sẽ là một hữu thể mới, một con người đã được ân sủng Ta đổi mới, một con người mới, và thi hành một sứ mạng mới hoàn toàn, sứ mạng đưa con người trở về lãnh nhận ân sủng cứu rỗi, trở về bước vào Nước Chúa. Simon Phêrô, và những bạn đồng nghiệp khác, Giacôbê, Gioan, Anrê, không cần thắc mắc thêm gì nữa cả, mặc dù bản chất của Phêrô là "hay thắc mắc, không dễ dàng tin ngay vào điều gì mình không hiểu". Nhưng hôm đó, Phêrô không thắc mắc chi nữa. Ông đã bị Chúa thu phục, chiếm hữu hoàn toàn. Phúc âm theo thánh Luca ghi lại rằng: Họ từ bỏ tất cả và theo Chúa ngay. Từ bỏ tất cả và theo Chúa ngay. Tác giả phúc âm nhấn mạnh đến tinh thần, đến phẩm chất của thái độ đáp trả của Phêrô: tất cả và liền ngay. Cái tất cả vật chất mà Phêrô, và các tông đồ khác, bỏ lại để theo Chúa, xét về số lượng, chắc không nhiều, không to lớn lắm đâu, vì các ngài là những người sống nghề đánh cá kiếm sống hằng ngày nơi biển hồ Galilêa. Nhưng tinh thần dứt khoát từ bỏ tất cả để theo Chúa liền ngay, thì quả thật là to lớn, là thật can đảm. Chúa không cần số lượng, nhưng cần phẩm chất. Người đàn bà nghèo bố thí cho Ðền Thờ chỉ có hai đồng xu, nhưng được Chúa đánh giá cao hơn những người biệt phái giàu có dâng cúng cho Ðền Thờ nhiều gắp mấy lần hơn. Thái độ dứt khoát từ bỏ tất cả và liền ngay, nói lên rõ ràng chổ đứng thứ nhất mà Phêrô muốn dành cho Chúa Giêsu trong cuộc đời của ông, từ nay trở về sau. Và đây là điều kiện đầu tiên để trở thành môn đệ của Chúa, để thi hành sứ mạng tông đồ Chúa trao phó cho. Sứ mạng tông đồ nầy đã được Chúa mạc khải cho Phêrô qua một ngôn ngữ đi liền với cuộc sống cụ thể của Ông: sứ mạng làm kẻ giăng luới bắt con nguời về cho Chúa, đưa con người trở về lại trong Ân Sủng của Chúa. Nhưng đây không phải chỉ là sứ mạng của Phêrô không mà thôi, mà là sứ mạng của tất cả và của từng người được gọi theo Chúa, của từng người Kitô. Mỗi người Kitô đều được Chúa trao cho sứ mạng giăng luới bắt anh chị em, dẫn đưa anh chị em về với Tình Thương Chúa. Mỗi người Kitô đều có trách nhiệm đối với ơn cứu rỗi của anh chị em. Thiên Chúa muốn cứu rỗi tất cả mọi người, nhưng nhờ qua sự cộng tác của mỗi người chúng ta. Ðó là chương trình mầu nhiệm của Chúa. Ðó là công việc của Thiên Chúa, và chúng ta cần thực hiện công việc đó theo như ý Chúa muốn, in verbo tuo, vâng theo Lời Chúa dạy.


 

V.
Kiên Vững trong Ðức Tin
và Cầu Nguyện

Chúng ta vừa đọc lại đoạn trích từ phúc âm theo thánh Mathêu, chương 15, câu 29-31, nói về phép lạ Chúa Giêsu đi trên mặt nước biển hồ Galilêa và cho phép Phêrô chia sẻ quyền năng đi trên mặt nước đến với Ngài. Biến cố nầy xảy ra trong thời điểm khoảng một năm, sau khi Phêrô và các bạn, đã từ bỏ mọi sự mà theo Chúa. Phêrô và các bạn đã lắng nghe những Lời Chúa giảng, đã chứng kiến những phép lạ Chúa thực hiện và đã được chiêm ngưỡng vinh quang Chúa và được Chúa giải thích đặc biệt hơn về Mầu Nhiệm Nước Trời. Hơn nữa, Phêrô và các bạn vừa mới được Chúa chọn riêng ra kết thành nhóm 12, và Phêrô đã được Chúa đặt đứng đầu nhóm. Tóm lại, vào thời điểm nầy, Chúa Giêsu đã mạc khải, tuy chưa trọn vẹn tất cả, cho Phêrô và các bạn biết thực thể thần linh của Chúa và ý định của Ngài về cuộc đời,và về tương lai của Phêrô. Hơn nữa, biến cố "đi trên mặt nước" xảy ra liền sau một phép lạ cả thể khác nữa, mà Phêrô và các tông đồ không những được chứng kiến, mà còn được tham dự vào nữa, đó là biến cố Chúa làm phép lạ cho bánh hóa ra nhiều và trao cho các tông đồ phân phát cho hàng ngàn người ăn no.

Sau phép lạ nầy, dân chúng hồ hởi muốn tôn vinh Chúa lên làm Vua. Nhưng Chúa Giêsu không chiều theo như vậy. Ngài ra lệnh cho các tông đồ xuống thuyền đi sang bên kia bờ hồ, còn Ngài thì ở lại giải tán dân chúng rồi lên núi cầu nguyện. Thuyền các tông đồ bị sóng to gió lớn cản trở. "Vào khoảng canh tư, tức khoảng 3 giờ sáng, Chúa Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ. Thấy Nguời đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: Ma đấy, và sợ hải la lên. Chúa Giêsu liền bảo các ông: Hãy yên tâm. Thầy đây. Ðừng sợ! Phêrô liền thưa với Nguời: thưa Thầy, nếu quả là Thầy thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Thầy. Chúa Giêsu bảo ông: Cứ đến! Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Chúa Giêsu. Nhưng thấy gió thổi, thì ông đâm ra sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: Lạy Thầy, xin cứu con! Chúa Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: nguời đâu mà kém tin vậy? Sao lại hoài nghi?

Lạy Thầy, nếu là Thầy, thì xin cho con được đến với Thầy. Vài nhà chú giải cho đây là một lời nói đầy tự phụ của Phêrô muốn kiểm chứng, thử thách quyền năng Chúa. Nhưng, một số khác thì giải thích theo hướng tích cực hơn, cho rằng đây là mong ước tự nhiên của Phêrô, đang phải chiến đấu với cảnh sóng to gió lớn, đang phải đương đầu với những nguy hiểm. Sau nghi nghe được chính giọng nói trấn an của Chúa, và đã biết là Chúa rồi chớ không phải là "bóng ma", thì ao ước tự nhiên của Phêrô là được đến với Chúa, không phải để thử Chúa, mà để được mau ở gần bên Chúa, thoát ra khỏi cảnh nguy hiểm. Phêrô được thôi thúc bởi tình yêu đối với Chúa, và không nghĩ là mình vừa lên tiếng xin Chúa một điều nghịch lại với định luật vật lý tự nhiên: là được đi trên mặt nước. Chúa đáp lại tình yêu nồng nhiệt của Phêrô. Nhưng sau đó, ta có thể nói là Phêrô không còn kiên vững trong Niềm Tin và Tình Yêu đối với Chúa nữa. Vì thế Ông bị nguy, và phải kêu lên: Lạy Thầy xin cứu con.

Ðây là điều có thể xảøy ra cho mỗi người đồ đệ của Chúa. Chúa Giêsu đã thực hiện những dấu lạ trong cuộc đời chúng ta. Hay nói cách khác, Chúa cho phép chúng ta được tham dự vào quyền năng thần linh của Ngài, làm chủ trên mọi biến cố thiên nhiên. Nhưng những nguy hiểm, thử thách được Chúa cho phép xảy ra, làm cho chúng ta lung lay trong niềm Tin và Tình Yêu, như Phêrô ngày xưa. Chúa không trách Phêrô dám to gan xin Chúa dấu lạ, nhưng trách, hay đúng hơn, chỉ cho Phêrô nhìn thấy nguyên nhân của nguy hiểm đang tấn công, làm cho ông bị chìm xuống nước, đó là: thiếu tin tưởng vào Chúa. Sao kém tin thế? Tại sao con do dự, hỡi kẻ kém tin? Ðức Tin và Tình Yêu kiên vững sẽ cung cấp cho chúng ta sức mạnh để vượt qua được những thử thách nguy hiểm. Nhưng, là con người, có những lúc chúng ta bị lung lay, bị cám dỗ ngã lòng. Ðó là những lúc chúng ta cần mau kêu cầu Chúa, như Phêrô: Lạy Thầy, xin cứu con. Ðây là lời cầu nguyện đầy ý nghĩa trong cơn thử thách. Chúng ta đừng quên cầu nguyện trong lúc thử thách. Ðừng quên Chúa hằng hiện diện bên cạnh và lúc nào cũng sẵn sàng giúp ta khỏi bị chìm. Nơi thơ do thái chương 12, câu 1-2, thánh Phaolô khuyên: "Chúng ta hãy nhìn về Chúa Giêsu. Và hãy chạy tới. Hãy kiên trì trong cuộc đua sức chúng ta đã bước vào". Ðời chúng ta là một cuộc đua giữa hai lực tốt và xấu đang tranh nhau chiếm lấy con người chúng ta. Hãy nhìn lên Chúa. Hãy kiên vững trong Ðức Tin và Tình Yêu. Hãy cầu nguyện chân thành luôn, lời cầu của Phêrô, của kẻ khiêm tốn chỉ biết đặt niềm tin vào Chúa mà thôi: Lạy Thầy, xin cứu con.

Lạy Chúa, Chúa đã ra lệnh cho con làm công việc của Chúa. Xin đừng để con phải một mình giữa hiểm nguy. Lạy Thầy xin cứu con. Xin đừng để con sa chước cám dỗ. Nhưng xin hãy cứu con khỏi mọi sự dữ. Amen.

 

VI.
Nguời Tông Ðồ
trước sự rút lui của đám đông

Những lời tuyên xưng Ðức Tin trên của Phêrô, như được ghi lại nơi chương 6 của Phúc âm theo thánh Gioan, đã được vang lên tại Hội Ðường Do Thái, sau khi Chúa Giêsu đã long trọng trình bày giáo huấn của Ngài về Bánh hằng sống và về việc cần phải ăn Thịt và uống Máu Ngài để được cứu rỗi. Ðây là một trong những trang đẹp nhất, hay nhất, quan trọng nhất của Phúc âm theo thánh Gioan. Chúa Giêsu rút ra bài học từ phép lạ Bánh hóa nhiều mà Ngài đã thực hiện trước đó. Phép lạ nầy đã thôi thúc dân chúng muốn tôn Ngài lên làm Vua, nhưng Chúa Giêsu đã lánh đi không chấp nhận. Rồi sau đó dân chúng kéo theo Ngài sang bên kia bờ hồ, về thành Capharnaum, thành của Chúa, và gặp Chúa trong Hội Ðường Do Thái, để nghe Chúa long trọng mạc khải về sự thật Ngài là Bánh bởi Trời ban sự sống đời đời cho những ai chấp nhận ăn Bánh nầy, chấp nhận ăn Thịt và uống Máu Ngài. Dân chúng trước đây đã hăng say theo Chúa vì phép lạ Bánh hóa nhiều "lấp đầy bao tử đang đói của họ", thì giờ đây phản ứng của họ lại "dội ngược lại" khi nghe Chúa nói về Bánh hằng sống là chính Ngài. Họ lẩm bẩm với nhau: những Lời nầy chướng tai quá. Ai mà nghe cho nổi. Không phải chỉ dân chúng mới phản ứng như vậy mà thôi, nhưng còn cả những môn đệ của Chúa nữa (cf. Gioan 6, 41 và 60). Tác giả phúc âm theo thánh Gioan ghi lại giây phút khủng hoảng đó như sau: Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Nguời nữa. (Gn 6,66). Ðây là lúc đau buồn trong cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu, vì không phải là một vài người bỏ đi, mà "nhiều người, nhiều môn đệ bỏ đi". Một cuộc trốn chạy, đào ngũ, tập thể. Nếu là những kẻ qua đường, bất chợt theo Chúa trong giây lát, thì không nói gì. Nhưng đây lại là những "môn đệ", những kẻ đã theo Chúa một thời gian, đã sống bên cạnh Chúa và đã được Chúa huấn luyện một thời gian rồi. Trong thời điểm nầy, những môn đệ đó đã từng chứng kiến những dấu lạ Chúa đã thực hiện để minh chứng cho Lời Chúa giảng. Những môn đệ đó đã từng hăng say từ bỏ tất cả để theo Chúa, đã một thời mạnh mẽ nói lên niềm tin tưởng vào Chúa. Nhưng giờ đây, họ rút lui, do bởi khủng hoảng của niềm tin. Phản ứng của Chúa Giêsu lúc đó cũng thật lạ thường: Chúa không làm gì để ngăn cản cuộc ra đi rút lui của các môn đệ. Ngài cũng không rút lại lời đã giảng, không sửa đổi đôi chút sự thật cho vừa tai cho vui lòng người nghe. Chúa quay sang nhóm 12 Môn đệ mà Ngài đã chọn riêng ra sau suốt một đêm dài cầu nguyện trao đổi với Thiên Chúa Cha. Chúa hỏi thẳng các ông: Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao? Các Tông đồ , trong đó có Simon-Phêrô, đang phải đương đầu với một quyết định quan trọng: Chọn Theo Một Mình Chúa, hay là chọn theo quyết định của đa số đang rút lui. Chọn đi theo con đường hẹp, sống thực hành những Lời dạy "khó nghe" của Chúa, hay là chiều theo ý kiến của đa số? "Anh em có muốn bỏ đi hay không ?" Tự do vẫn luôn là đặc tính căn bản của những đồ đệ Chúa. Lúc ấy Phêrô trả lời, và trả lời ngay, không do dự, thay thế cho nhóm 12: Thưa Thầy, bỏ Thầy, chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời. Phêrô dùng từ "chúng con": Bỏ Thầy, chúng con biết đến với ai? Phêrô ý thức vai trò "đứng đầu cộng đoàn" của mình. Phêrô nhất quyết, và cùng với nhóm 12, nhất quyết chọn Chúa. Phêrô xác tín rõ ràng Chúa là tất cả của cuộc đời ông. Ðồng thời Ông cũng xác nhận về cùng đích của đời sống con người không dừng lại trên trần gian nầy, trên những lợi lộc vật chất, nhưng phải vươn đến điều siêu việt hơn, đến sự sống đời đời. Trả lời cho Chúa như vậy, Phêrô còn xác nhận thêm rằng con người cần có một Vị Thầy cao cả như Chúa, một vị Thầy có quyền năng ban sự sống đời đời, làm cho cuộc đời con người trở nên sung mãn, đầy đủ nhất. Trên đời nầy, xét cho cùng, thì không ai mà không có thầy. Ðiều khác biệt là người Thầy đó là ai, như thế nào mà thôi. Có người chọn cho mình vị Thầy nơi sách vở, nơi triết thuyết nầy nọ, nơi ý kiến của những kẻ thông minh, nơi lợi lộc vật chất, và theo ngôn ngữ của thánh Phaolô, nơi "cái bụng" của họ. Nhưng đối với Phêrô thì khác: ông đã chọn Chúa, đã chọn cho mình một vị Thầy có thể ban cho ông "Lời hằng sống": Thầy có Lời ban sự sống đời đời. Verba Vitae aeternae habes. Sau nầy, Chúa Giêsu còn mạc khải cho các môn đệ trung thành những điều khó nghe hơn nữa, đòi hỏi nhiều hy sinh hơn nữa, cho đến chết trên thập giá như Ngài. Nhưng không sao, bước quyết định căn bản đã được thực hiện, với hết thành tâm thiện chí. Chúa biết rõ con yêu mến Chúa và muốn theo Chúa như thế nào rồi. Ðó là điều quan trọng. Và Chúa cũng biết rõ con người chúng ta yếu hèn như thế nào rồi. Ngài sẽ bù đắp và nâng đỡ: Ơn Ta đủ cho con.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con được nhất quyết trên con đường theo Chúa, đừng để chúng con bị cám dỗ bởi ý kiến của đa số, cũng đừng để chúng con ngã lòng vì những tật xấu của anh chị em, và nhất là của chính bản thân chúng con. Ơn Chúa đủ cho con. Và con tin như vậy. Amen.

 

 

VII.
Tuyên Xưng Ðức Tin

Lần theo những biến cố trong cuộc đời theo Chúa của thánh tông đồ Phêrô, chúng ta được dịp khám phá lại những sự thật liên quan đến ơn gọi Kitô. Mỗi người được Thiên Chúa kêu gọi đến lãnh nhận ơn cứu rỗi cho chính mình và giúp anh chị em mình cũng được ơn cứu rỗi. Ðó là hai chiều căn bản của mọi ơn gọi: hướng về đương sự được gọi, ơn gọi thánh hóa bản thân người được gọi; và hướng về anh chị em, ơn gọi làm cho đương sự dấn thân phục vụ sự cứu rỗi của anh chị em xung quanh. Ðây là một trách vụ cao cả, cần được canh tân mỗi ngày nhờ mối tương quan thân tình và tin tưởng hoàn toàn vào Chúa.

Chúng ta hãy nhìn đến biến cố Phêrô tuyên xưng đức tin, tại vùng gần thành Cêsarê Philiphê. Lời tuyên xưng Ðức Tin: Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống, ghi dấu một giai đoạn quan trọng không những trong cuộc đời của Phêrô, mà còn trong lịch sử của nhân loại nữa. Một trang mới trong cuộc đời của Phêrô được mở ra, và một thời mới trong lịch sử nhân loại được bắt đầu từ đây với sự thiết lập một cộng đoàn mới, một cộng đoàn của những kẻ được cứu rỗi, là giáo hội của Chúa Giêsu Kitô. Cả hai chiều kích nầy được biểu lộ rõ ràng trong lời xác nhận của Chúa Giêsu, tiếp theo lời tuyên xưng Ðức Tin của Phêrô: Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Lúc đó Chúa Giêsu trả lời cho Phêrô như sau:

Nầy Simon, con Giona, con thật là có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho con biết điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Ðấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho con biết: Con là Phêrô, nghĩa là Ðá Tảng, trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho con chìa khóa Nước Trời: duới đất, con cầm buộc điều gì, thì trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Duới đất, con tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.

Thật không có lời gì khác quan trọng hơn những lời trên, cho tương lai của Phêrô cũng như tương lai của toàn thể nhân loại. Một thực tại mới được bắt đầu: Simon Phêrô trở thành Ðá Tảng, nền tảng cho một cộng đoàn những kẻ được cứu rỗi, là Giáo Hội Chúa. Và Chúa Giêsu đã chuẩn bị cho giây phút tuyên xưng Ðức Tin quan trọng nầy, sau thời gian dài kêu gọi, huấn luyện, nêu gương, sống bên cạnh những môn đệ, và đặc biệt là nhóm 12. Người ta bảo Con Nguời đây là ai? Và các con, các con bảo Thầy đây là ai? Ðó là hai câu hỏi cũng được Chúa đặt ra cho mỗi người lắng nghe tiếng Chúa gọi, thuộc mọi thời đại. Niềm tin của người đồ đệ vào Chúa luôn luôn bị thách thức bởi những thái độ, những nhận định, những phản ứng của những anh chị em xung quanh. Nguời ta đã bỏ Chúa ra đi, vì những lời giảng chói tai khó nghe. Nguời ta cho Chúa là một nhân vật nào đó, một vị tiên tri, một nhà hiền triết. "Chúng con có muốn bỏ đi như người ta nữa hay không? Nguời ta bảo con người đây là ai ?" Mỗi người chúng ta cần trả lời dứt khoát cho câu hỏi của Chúa: Phần chúng con, chúng con bảo Thầy là ai? Và như Phêrô, chúng ta cần dứt khoát lắng nghe theo ơn soi sáng của Thiên Chúa Cha mà tuyên xung: Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Và chúng ta đã biết rõ những hậu quả của Lời tuyên xưng đó trong cuộc đời của các tông đồ, cũng như trong lịch sử của Giáo Hội mà Chúa Giêsu đã thành lập trên Ðá Tảng Phêrô. Trong lịch sử thời nào cũng vậy: phúc cho kẻ Tin vào Chúa. Phêrô, con là người có phúc. Và phúc đó đến từ Thiên Chúa Cha. Không phải phàm nhân mạc khải cho con điều đó. Không phải phàm nhân ban cho con được phúc tin vào Chúa. Nhưng là Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời.

 

VIII.
Tin Chúa và
Tin Giáo Hội Của Chúa

Biến cố xảy ra tại vùng gần thành Cêsarê Philiphê thật quan trọng. Chúng ta trở lại chiêm ngắm thêm một lần nữa. Ðây không phải chỉ có một lời tuyên xưng của Phêrô mà thôi, nhưng có hai lời tuyên xưng, của Phêrô và của Chúa Giêsu. Lời tuyên xưng thứ nhất của Phêrô: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa", làm sáng danh Thiên Chúa, Ðấng yêu thương con người, đến độ sai Con Một Mình xuống trần làm người để cứu rỗi con người. Lời tuyên xưng của Phêrô nhìn nhận chương trình của Thiên Chúa đang diễn ra trong lịch sử con người. Ðáp lại lời tuyên xưng nầy, và có thể nói, dựa trên lời tuyên xung nầy, Chúa Giêsu tuyên bố vinh hạnh của Phêrô, vừa đồng thời cũng là vinh hạnh của con người, của tất cả mọi người được quy tụ lại trong một đại gia đình của Thiên Chúa, trong một cộng đoàn của những con cái Thiên Chúa: "Nầy Simon Phêrô, Con là Ðá Tảng, trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy ." Phêrô tuyên xưng vinh quang của Thiên Chúa. Chúa Giêsu tuyên bố vinh quang của Phêrô được chọn làm Ðá Tảng, và sự chọn lựa đó bền vững muôn đời. Dù cho Phêrô có thế nào đi nữa, nhưng Thiên Chúa không thay đổi chương trình, không hủy bỏ sự chọn lựa: Phêrô, Con là Ðá Tảng, trên Tảng Ðá nầy, Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy. Và vinh quang của Phêrô được Chúa Giêsu tuyên bố ra đây, không phải là vinh quang để Phêrô khoe khoang hay hưởng thụ quyền lực và danh vọng, mà là vinh quang của Thập Giá, của hy sinh chiến đấu, của việc phải từ bỏ mọi sự, cho đến cả mạng sống của mình nữa. Và chúng ta đã biết rõ con đường vinh quang Thập Giá mà Phêrô đã trải qua. Phêrô chỉ vừa mới tuyên xưng một sự thật "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống", thì Chúa Giêsu tiếp đó mà tuyên bố một sự thật khác nữa: Trên Ðá Tảng là chính con đây, Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy.

Phêrô mới nhìn nhận Mầu Nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, nơi chính con người Giêsu thành Nazareth, đang đứng trước mặt mình đây. Chúa Giêsu liền mạc khải thêm mầu nhiệm Nhập Thể thường hằng mãi mãi trong lịch sử cho đến tận cùng của Con Thiên Chúa, không phải trong một con người, mà trong mọi người được quy tụ lại trong một cộng đoàn, một giáo hội của Nguời. Giáo Hội là Mầu Nhiệm Nhập Thể kéo dài mãi mãi của Con Thiên Chúa. Giáo Hội nầy mà chúng ta đang là thành phần, là Giáo Hội Chúa Giêsu muốn thành lập như là "giáo hội của Thầy". Theo nguyên ngữ, từ Giáo Hội (ekklesia) có nghĩa là "cộng đoàn của những kẻ được gọi đến chung lại với nhau". Chúng ta là giáo hội của Chúa. Tất cả chúng ta đều được Chúa gọi đến chung lại với nhau. "Hãy đến theo Thầy". "Hãy đến theo Thầy, trong Giáo Hội của Thầy", nơi con người được ân sủng trở thành con cái Thiên Chúa, chia sẻ sự sống của Thiên Chúa. "Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Nguời, thì Nguời cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa" (Gioan 1,12). Thiên Chúa gọi ta đến với Ngài, trong Hội Thánh của Chúa, để ta được biến đổi, trở thành con cái Thiên Chúa, sống trong sự hiệp thông với Chúa và với nhau. Sau nầy, lúc sắp lìa xa các môn đệ, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh "Cây Nho và những ngành nho", để diễn tả mầu nhiệm hiệp thông giữa Chúa và các môn đệ trong Giáo Hội của Chúa. Và lúc đó Chúa Giêsu đã ra lệnh: Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Tất cả mọi sinh hoạt của người đồ đệ của Chúa đều được diễn ra "trong Giáo Hội của Chúa". Mọi người Kitô, đồ đệ của Chúa, đều được quy tụ lại với nhau trong Chúa, trong một Thân Thể huyền nhiệm của Chúa. Ðây là Giáo Hội của Thầy, trên Ðá Tảng Phêrô. Thánh Phaolô tông đồ, trong chính giây phút được gọi trên đường Damas, đã khám phá sự thật nầy trong chính lời chất vấn của Chúa: Saolo, tại sao con bắt bớ Ta? Phaolô đang trên đường đi tìm những người Kitô, những người Do Thái đã bỏ đạo của cha ông, để tin theo một nguời tên là Giêsu. Lúc đó Phaolô đâu có nghĩ thêm gì khác. Ông đi tìm bắt những con người mà ông cho là phản bội lại giáo lý của cha ông. Thế nhưng Chúa Giêsu đã hỏi ông: Tại sao con bắt bớ Ta? Chúa Giêsu hiện diện, nhập thể, trong từng nguời độ đệ của Ngài, được quy tụ lại trong Giáo Hội của Nguời. Giáo Hội là Nhiệm thể của Chúa Giêsu Kitô. Ðó là Giáo Hội của Thầy, của Chúa chúng ta.

Còn Thầy, Thầy bảo cho con biết: Con là Phêrô, nghĩa là Ðá Tảng, trên Tảng Ðá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và Cửa Hỏa Ngục, tức Quyền Lực Tử Thần sẽ không thắng nổi. (Mt 16, 18).

Lời công bố long trọng của Chúa Giêsu trấn an các tông đồ, vừa đồng thời mạc khải tính cách thường hằng luôn mãi của Giáo Hội. Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa. Giáo Hội của Chúa, vì là Nhiệm Thể của Ngài, nên cũng mang lấy đặc tính thần thiêng, mặc dù có bao gồm trong mình những thành phần con người, yếu đuối, tội lỗi. Giáo Hội của Chúa sẽ hiện diện mãi trong lịch sử, dù cho cửa hoả ngục, tức quyền lực sự dữ tấn công vào Giáo Hội nhằm mục tiêu cuối cùng là tiêu diệt giáo hội. "Nhưng cửa Hỏa Ngục sẽ không thắng được ."

Trong cuộc sống, thường khi người đồ đệ của Chúa quá chú ý đến khía cạnh nhân loại của Giáo Hội, chịu ảnh hưởng của những điều tiêu cực trong giáo hội. Họ phàn nàn quá khứ, hiện tại, và lo sợ cho Giáo Hội Chúa không còn tương lai nữa. Khi gặp cám dỗ tương tự, chúng ta hãy nhớ đến những lời bảo đảm của Chúa Giêsu: Quyền Lực sự dữ không thể thắng vượt được Giáo Hội. Ðiều nầy không có nghĩa là Giáo Hội không bị bách hại, và những thành phần Giáo Hội có thể nghỉ yên. Không, để trung thành với Chúa Giêsu Kitô, Ðấng sáng lập mình, Giáo Hội phải gặp những nghịch cảnh, những chống đối, những thiệt thòi mất mát. Nhưng niềm hy vọng vẫn luôn thuộc về chúng ta. Tuy bao gồm những con người tội lỗi, nhưng Giáo Hội vẫn luôn thánh thiện, luôn được liên kết với Chúa Kitô, Thủ lãnh của Giáo Hội, và do đó được trường tồn mãi mãi. Chúa Giêsu không phải chỉ cảnh tỉnh Giáo Hội một lần rồi thôi, nhưng Ngài tiếp tục lưu ý các tông đồ về số phận phải chịu cùng với Ngài, như sau: "Chúng con sẽ bị bách hại. Nguời ta sẽ đưa chúng con ra trước tòa án. Chúng con sẽ phải chịu bách hại. Họ sẽ ghét chúng con vì danh Thầy: nhưng hãy tin tưởng, Thầy đã chiến thắng".

Vào thời của Thánh Augustinô, những kẻ thù của Giáo Hội đã tuyên bố: Giáo Hội sắp chết, những người Kitô sắp tan rã. Nhưng thánh Augustinô đã trả lời ngược lại: "Tôi nhìn thấy những con người đó lần lượt chết đi, nhưng Giáo Hội thì vẫn tiếp tục phát triển. Giáo Hội rao gảng Lời Chúa cho thế hệ kế tiếp". Voltaire đã có lần loan báo: "Chỉ hai mươi năm nữa thôi, Giáo Hội Công Giáo sẽ tàn lụn mất". Hai mươi năm sau, Voltaire không còn sống trên đời nữa, nhưng Giáo Hội thì vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Montalembert đã có câu nói nổi tiếng sau đây, vào năm 1845: "Ðối lại với tất cả những ai bôi lọ, trói buộc hay phản bội Giáo Hội, thì Giáo Hội chỉ có một lối trả thù duy nhất nầy mà thôi là cầu nguyện cho họ; và Giáo Hội vẫn tồn tại sau khi mọi kẻ thù chống đối mình đã chết hết ."

"Trên Ðá Tảng Phêrô, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy. Dù cửa hỏa ngục, quyền lực của sự dữ, cũng không thể thắng vượt được ."Giáo Hội là yếu hèn, vì bao gồm những con người tội lỗi, yếu hèn. Nhưng Giáo Hội cũng rất thánh thiện, tràn đầy ân sủng của Chúa, là Nhiệm Thể của Chúa Kitô, và được Chúa bảo vệ, gìn giữ cho đến tận cùng.

Chúng ta hãy tin tưởng vào Giáo Hội cho đến cùng. Chúng ta hãy chiến đấu với chính sự dữ nằm trong bản thân mình, để gíup cho Giáo Hội được chiến thắng trên mọi sự dữ.

 

IX.
Thủ Lãnh Nhân Loại
của Giáo Hội Thần Thiêng

Chúa Giêsu trao cho Phêrô quyền trên Giáo Hội mà Chúa thiết lập trên Ðá Tảng Phêrô như sau:

Thiên Chúa muốn đưa nhân loại lên trở về cùng Ngài. Và Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, khi nhập thể làm người, đã kết hợp một cách kỳ diệu nơi chính mình hai bản tính chung lại với nhau: Thiên tính và Nhân tính. Con Thiên Chúa xuống thế làm người, để con người, mỗi người chúng ta được trở thành con cái Thiên Chúa. Và ý định của Thiên Chúa thật rõ ràng. Ðó là: con người, mỗi người chúng ta, trở về với Ngài, bước vào Nước Trời, nhờ qua một cộng đoàn, một giáo hội được Chúa Giêsu Kitô thiết lập trên Ðá Tảng Phêrô: Con là Ðá, trên Ðá Tảng nầy, Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho con chìa khóa Nước Trời; dưới đất con cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Duới đất con tháo cởi điều gì, thì trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy. (Mt 16,18-19).

Giáo Hội là một thực tại nhân trần vì bao gồm những con người cụ thể tin nhận Chúa Giêsu Kitô. Nhưng đồng thời giáo hội cũng là một thực tại thần thiêng, vì đó là Nhiệm Thể của Chúa Giêsu Kitô. Trong nhiệm thể nầy, Chúa Thánh Thần không ngừng tác động, để liên kết mỗi thành phần lại với nhau và với Chúa Giêsu. Thực tại nhân trần hữu hình của Giáo Hội cần được điều hành, hướng dẫn bởi một thẩm quyền, để duy trì sự hiệp nhất và gìn giữ giáo lý của Chúa, Ðấng sáng lập Giáo Hội, được luôn tinh tuyền nguyên vẹn.Và Chúa Giêsu đã trao cho Phêrô, một con người phàm trần, những quyền năng thần thiêng, để chu toàn tác vụ điều hành giáo hội Chúa. Khi nói với Phêrô: Thầy trao cho con chìa khóa Nước Trời; sự gì con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc", Chúa Giêsu không phải chỉ trao cho Phêrô "danh dự đứng đầu các tông đồ mà thôi", "danh dự đứng đầu giáo hội Chúa mà thôi", nhưng là quyền hành thật sự để chu toàn một trách vụ đặc biệt, trên mọi trách vụ được trao ban cho các tông đồ.

Và chúng ta có thể nói, khi chọn một con người như Phêrô, một con người có những khuyết điểm, cho một trách vụ cao cả như vậy, Chúa Giêsu đã chấp nhận những liều lĩnh. Khi chọn Phêrô làm Ðá Tảng của Giáo Hội, và khi trao quyền thần linh cho con người Phêrô, Chúa Giêsu có phương thế của Ngài, để vượt qua được những khuyết điểm của Phêrô. Chúa biết Phêrô sẽ chối Chúa trong biến cố Vượt Qua Ngài sẽ trải qua; nhưng Chúa nhắc Phêrô: Khi con chỗi dậy, thì hãy nâng đỡ củng cố đức tin của anh em con.

Sách Tông Ðồ Công Vụ có ghi lại vài chi tiết quan trọng cho ta thấy Phêrô đã thi hành quyền hành thần linh Chúa trao cho, để hướng dẫn Giáo Hội Chúa như thế nào. Chính Phêrô là kẻ đứng lên tuyên bố quyết định phải chọn một nguời mới thay thế chổ của Giuđa, để duy trì con số 12 tông đồ. Chính Phêrô đã đứng lên tuyên bố nhân danh các tông đồ khác và quyết định cho việc rao giảng Tin Mừng Chúa Phục Sinh ra ngoài ranh giới Giêrusalem, ra ngoài ranh giới Dân Israel. Nhưng cũng có lúc Phêrô cho thấy khuyết điểm của mình, không dám hòa mình với anh chị em tin Chúa không phải là người Do Thái, khi tông đồ Phaolô đến thăm cộng đoàn nơi đó. Và như chúng ta biết, Tông đồ Phaolô đã trách Phêrô về điều nầy; nhưng dù có trách Phêrô, Phaolô không bao giờ chống lại hay loại bỏ quyền hành của Phêrô trên giáo hội của Chúa. Hơn nữa, để vượt qua sự nghi ngờ của những kẻ thù không muốn cho Ngài rao giảng Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, thánh Phaolô đã nại đến uy tín của Phêrô, đã công khai nhắc lại rằng, khi ngài ăn năn trở lại, ngài có lên Giêrusalem để gặp Phêrô và ở lại với Phêrô trong vòng 15 ngày, để kiểm điểm giáo lý ngài rao giảng là đúng thực. Chính tông đồ Phêrô chủ sự Công Ðồng đầu tiên của Giáo Hội Chúa, công đồng Giêrusalem, vào năm 51. "Hãy chăn dắt chiên con, chiên Mẹ của Thầy", đó là mệnh lệnh cuối cùng của Chúa Giêsu Phục Sinh cho Phêrô, trong lần hiện ra nơi bờ biển hồ Tibêria, để xác nhận lại việc Ngài đã trao quyền hành thần thiêng cho Phêrô, mặc dù Phêrô đã chối Ngài ba lần, trong cuộc Thương Khó vừa qua. Ðiều an ủi nhất cho Phêrô có thể là lời quả quyết chân thành của Chúa, là sẽ luôn luôn cầu nguyện cho Phêrô: Thầy cầu nguyện cho con, để rồi, khi con đứng dậy, con củng cố anh em con ." Tác vụ của Tông đồ Phêrô vẫn được tiếp tục trong dòng lịch sử qua bao thế kỷ, cho đến ngày hôm nay, do bởi những Ðấng kế vị Thánh Phêrô. Những danh gọi "Ðức Thánh Cha", "Ðức Giáo Hoàng", "Ðức Giáo Chủ", "Vị Giám Mục Roma", không quan trọng, và có thể thay đổi theo thời đại. Nhưng tác vụ của Phêrô, cùng với quyền hành thần linh, "trói buộc hay tháo cởi", luôn luôn nguyên vẹn, cho đến tận cùng thời gian. Những sự yếu đuối, cả tội lỗi của con người, của những kẻ được Chúa chọn, không thể nào làm hư hay thay đổi chuơng trình cứu rỗi của Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại.

Chúng ta hãy mặc lấy những tâm tình của cộng đoàn tín hữu đầu tiên mà kính trọng, mến yêu, vâng phục và cầu nguyện cho Ðấng kế vị Thánh Phêrô hướng dẫn giáo hội Chúa. Thánh Phêrô và Ðấng kế vị ngài trong dòng lịch sử luôn luôn có hai trợ lực hữu hiệu: đó là sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần và lời cầu nguyện của các thành phần giáo hội Chúa trên trần gian.

 

X.
Người Tông Ðồ không nên
xét đoán theo những
tiêu chuẩn nhân loại

Phêrô đã được Chúa chọn làm Ðá Tảng và được Chúa trao cho quyền trên Giáo Hội. Nhưng rồi, không lâu sau đó, Phêrô Ðá Tảng nâng đỡ Giáo Hội, lại trở thành "đá cản đường", vì Phêrô đã không hiểu, hay đúng hơn, lúc đó chưa đủ sức hiểu mầu nhiệm Thập Giá mà Chúa Giêsu phải đi qua, để thực hiện Thánh Ý của Thiên Chúa Cha, Ðấng sai ngài vào trần gian. Ơn cứu rỗi con người tùy thuộc vào quyền năng Thiên Chúa, nhưng quyền năng đó lại được thể hiện trên thập giá, qua cái chết oan ức sĩ nhục. Phêrô đã phản ứng theo tâm tình tự nhiên của một người đồ đệ yêu mến đề cao Thầy mình; Ông đã xét đoán sự việc theo những tiêu chuẩn tự nhiên phàm trần, theo tâm thức trần tục. Tác giả phúc âm theo Thánh Mathêu, nơi chương 16, từ câu 21 đến 23, đã ghi lại sự vấp phạm của Phêrô như sau:

Quyền năng thần thiêng không đi đôi với vinh quang trần gian. Các môn đệ đã theo Chúa một thời gian, đã chính mắt nhìn thấy những dấu lạ Chúa thực hiện để chứng tỏ quyền năng thần thiêng của Ngài là Con Thiên Chúa. Và gần nhất, các tông đồ đã nghe Chúa nói về công việc ngài sắp thực hiện là xây Giáo Hội Ngài trên Ðá Tảng Phêrô, vững chắc muôn đời đến độ "cửa Hỏa Ngục, tức quyền lực sự dữ không thể làm gì được". Với tâm tình của một con người phàm trần, các tông đồ nói chung, và Phêrô nói riêng, có thể bị cám dỗ có tâm thức "ỉ lại và tìm vinh quang trần gian", không chấp nhận điều mà Chúa Giêsu mạc khải cho các ngài tiếp liền đó, là mầu nhiệm Thập Giá, là cái chết của Chúa tại Giêrusalem. Chúng ta nhìn thấy và có thể thông cảm cho thái độ của Phêrô lúc đó, là "đưa Chúa riêng ra và trách Chúa, vừa nói lên nguyện vọng là đừng xảy ra điều tệ hại như vậy cho Chúa. Nguyên văn tiếng Hy Lạp của cách nói "kéo Chúa riêng ra", còn có thể chuyện dịch là "đưa Chúa riêng ra để an ủi Nguời". Có thể Phêrô còn nghĩ trong đầu óc mình là Chúa Giêsu đang gặp lúc xuống tinh thần, vì những chống đối của những vị lãnh đạo dân Israel. Lời trách của Phêrô có thể được hiểu như là một lời an ủi Chúa: Phêrô muốn trấn an Chúa là sẽ không xảy ra như Chúa vừa nói. Ðó là Phêrô hiểu và hành động theo tâm tình bình thường của một người đầy ngưỡng mộ và yêu mến Thầy mình. Hành động như vậy, Phêrô đã trở thành đá cản đường, đá vấp phạm cho Chúa Giêsu, muốn như là "cám dỗ Chúa" đừng thi hành trọn vẹn Thánh Ý Thiên Chúa Cha. Phêrô đã hành động như vậy vì yêu mến Thầy mình; nhưng đây là tình yêu mù quáng, chưa được Thánh Thần Chúa tinh luyện. Trong cuộc đời của Phêrô, còn một dịp khác nữa, để Phêrô hành động như vậy, nghĩa là hành động vì tình yêu tự nhiên. Ðó là khi Chúa loan báo là đến lúc khó khăn các môn đệ sẽ bỏ trốn, sẽ bị vấp phạm, khi Chúa bước vào cuộc Thương Khó. Lúc đó, Phêrô đã tự phụ tuyên bố như sau: Dù mọi người bỏ Thầy, nhưng con thì nhất định sống chết với Thầy. Phêrô không lường sức mình, vì chỉ sau đó không lâu, Phêrô đã chối Chúa đến ba lần. "Tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa". Mọi người đồ đệ cần để cho ơn sủng Chúa thanh luyện, để suy nghĩ và hành động theo những tiêu chuẩn của Thiên Chúa.

 

XI.
Theo Chúa Khi Vui
cũng như khi buồn

Chúa Giêsu đã bắt đầu tác vụ rao giảng công khai với lời chứng của Thiên Chúa Cha trước mặt nhiều người đang hiện diện để lãnh lấy phép Rửa Thống Hối của Gioan Tiền Hô. Ðó là biến cố Chúa Giêsu chịu phép Rửa nơi sông Giordan, biến cố được các tác giả phúc âm kể như là biến cố khai mạc tác vụ rao giảng công khai của Chúa Giêsu: Ðây là Con ta rất yêu dấu, đẹp lòng Ta. Hãy nghe Lời Người. Rồi với biến cố Chúa Biến Hình trên núi Tabor, như được thuật lại nơi chương 9 Phúc âm theo thánh Marcô và nơi các đoạn song song trong các Phúc âm khác, Chúa Giêsu bước vào có thể nói là giai đoạn thứ hai của cuộc đời rao giảng Tin Mừng. Chúa Giêsu đã tổng kết giai đoạn thứ nhất với hai câu hỏi đặt ra cho các môn đệ: Nguời ta bảo Con Nguời là ai? Và chúng con, chúng con bảo Thầy là ai? Lúc đó Phêrô đã mạnh dạn tuyên xưng: Thầy là Ðức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống. Và liền đó, Chúa Giêsu mạc khải cho các tông đồ con đường sống trên trần gian, giữa loài người, của Ðấng là Con Thiên Chúa: con đường đi qua mầu nhiệm Thập Giá. Thánh Phêrô, vì lòng yêu mến tự nhiên đối với Chúa Giêsu, đã an ủi Chúa như sau: Không thể nào xảy ra chuyện nầy cho Chúa được đâu. Con Thiên Chúa quyền năng mà làm sao chết được trong tay con người? Nhưng Chúa Giêsu cương quyết đi trên con đường Thập Giá, và trách Phêrô: Satan, hãy lui ra. Con suy nghĩ theo cách thức tự nhiên của con người, chớ không phải theo cách thức của Thiên Chúa. Trong giây phút quan trọng nầy, một cuộc can thiệp của Thiên Chúa Cha, một lời xác nhận của Thiên Chúa Cha, là điều cần thiết cho sự trưởng thành đức tin của các môn đệ. Chúa Giêsu chọn riêng ra ba môn đệ: Phêrô, Giacôbê và Gioan, để theo Ngài lên núi. Và trên núi đó, Chúa Biến Hình uy nghi cao cả trước mặt các ông, cho phép đôi mắt phàm trần của các ông nhìn thấy một chút vinh quang thần thiêng của Ngài, vinh quang của Con Một Thiên Chúa Cha, vinh quang mà Con Một đã có từ trước muôn đời. Phêrô lại nghe được lời chứng của Thiên Chúa Cha: Ðây là Con Ta yêu dấu. Và không những chỉ có Lời chứng của Thiên Chúa Cha, mà còn có sự hiện diện của hai vị Tiên Tri cao cả của Cựu Ước là Môi Sen và Elia, đến nói chuyện với Chúa Giêsu về cái chết của Ngài tại Giêrusalem. Như thế, ba môn đệ có mặt nói chung, và Phêrô nói riêng, được chỉ cho biết rằng Mầu Nhiệm Thập Giá mà Chúa Giêsu vừa nhắc đến dưới chân núi, không phải là điều do Chúa tự bịa ra trong lúc xuống tinh thần vì những chống đối, mà là điều nằm trong chương trình thực hiện ơn cứu rỗi, do Thiên Chúa Cha đề ra, và chuẩn bị trong suốt lịch sử cựu ước của Dân Chúa. Hy sinh của Chúa trên thập giá là hy lễ đã được an bày trước, được các vị tiên tri của Thiên Chúa loan báo trước.

Nhưng phản ứng của Phêrô lúc đó ra sao? Một lần nữa, chúng ta ghi nhận thái độ không trọn hảo của Phêrô. Qua lời nói, mà sau nầy hồi tỉnh lại, Phêrô không biết mình đã nói gì, qua lời nói: Thưa Thầy, ở đây tốt lắm. Chúng con sẽ xây lên ba lều cho Thầy và cho Môisen và Elia. Phêrô không muốn xuống núi, không muốn va chạm với những phiền phức, những chống đối nghịch lại Chúa Giêsu, trong cuộc sống giữa mọi người duới chân núi. Phêrô muốn ở lại trên núi để chiêm ngắm vinh quang Chúa biến hình, hơn là xuống núi, trở về lại với cuộc sống đầy phiền phức vì những tranh chấp, chống đối. Sau nầy, Phêrô hiểu rõ hơn thái độ không trọn vẹn đó của mình. Thánh sử Marcô, người đồ đệ của Tông đồ Phêrô, đã ghi lại chi tiết có thể do chính Phêrô nói lại, đánh giá phản ứng của Phêrô trong biến cố Chúa Biến Hình. Ðó là chi tiết nói: Phêrô không biết mình nói gì.

Phêrô muốn vui hưởng thị kiến Chúa vinh quang, và không còn muốn sống trong Ðức Tin nữa. Nhưng trên trần gian nầy, cuộc sống trong Ðức Tin là điều không thể nào tránh bỏ đi được. Thị kiến vinh quang Chúa, là những giây phút ngoại thường, ngắn ngủi , để khuyến khích, nâng đỡ Ðức Tin, chớ không thể thay thế Ðức Tin. Thị kiến Vinh Quang Thiên Chúa, mặt đối mặt, là phần thưởng cuối cùng cho những ai bền đỗ đến cùng, chu toàn trọn vẹn sứ mệnh lãnh nhận trên trần gian nầy.

 

XII.
Ðức Bác Ái không giới hạn

Trong phúc âm chúng ta có thể ghi nhận chú tâm đặc biệt của Chúa Giêsu đối với việc huấn luyện riêng cho các tông đồ. Ngoài việc giảng dạy cho dân chúng, Chúa Giêsu thường dành riêng thời gian để giải thích thêm cho các môn đệ. Ðối với Phêrô, nơi chương 18 của Phúc âm theo thánh Mathêu, chúng ta ghi nhận một cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Tông đồ Phêrô như sau:

Bấy giờ Ông Phêrô đến gần Chúa Giêsu và hỏi rằng: Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha thứ đến mấy lần? Có phải bảy lần không? Chúa Giêsu đáp: Thầy không bảo con là đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy (Mt 18,21-22).

Sự tha thứ cho nhau là một trong những đề tài giáo lý được Chúa Giêsu lưu ý đến nhiều. Trong bài giảng trên Núi, hiến chương của Nước Trời, và nơi Lời Kinh Lạy Cha mà Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ -- tất cả được ghi lại nơi chương 5 của Phúc âm theo Mathêu -- Chúa Giêsu đã nhấn mạnh đến điểm nầy. Bản năng muốn trả thù ăn rể sâu nơi con người đến độ chúng ta có thể xem việc tha thứ như là một thái độ hèn nhát. Chúa Giêsu đã phải nhấn mạnh đến thái độ tha thứ nhiều lần và nhiều cách. Dịp thôi thúc Phêrô đến hỏi Chúa xem phải tha thứ cho anh chị em đến mấy lần, đến bảy lần chăng, là khi Chúa Giêsu trình bày giáo lý về việc sửa lỗi cho anh chị em. Chúa Giêsu xem ra như nhấn mạnh đến tình thương bác ái như là mẫu mực cho thái độ giữa những đồ đệ của Chúa đối với nhau. Phêrô thắc mắc với Chúa về giới hạn của tình thương đó. Phải tha cho anh chị em đến mấy lần? Luật Môisen thì dạy đến ba lần. Phêrô nới rộng ra đến bảy lần. Con số 7 trọn hảo, gấp hai lần luật Môi sen dạy. Nhưng dù sao cũng vẫn còn có giới hạn. Câu trả lời của Chúa Giêsu, không có nghĩa là gia tăng lên đến 70 lần con số 7, tức 490 lần. Nhưng có nghĩa là không còn giới hạn nữa, không còn tính toán xem đến bao nhiêu lần nữa. Tiếp liền với câu trả lời cho Phêrô, Chúa Giêsu kể lại dụ ngôn về nguời đầy tớ mắc nợ chủ, được chủ tha nợ, nhưng lại không biết noi gương chủ mà tha thứ cho anh chị em. Lời Ông chủ nói với người đầy tớ không biết tha thứ, giúp chúng ta hiểu thêm ý của Chúa Giêsu về bài học tha thứ:

"Hỡi tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao? Và Chúa Giêsu kết luận dụ ngôn như sau: Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời, cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình (Mt 18,32tt).

Chúng ta có thể lưu ý đến hai chi tiết mà Chúa Giêsu muốn lưu ý Phêrô và các môn đệ: tha thứ hết lòng và tha thứ như Thiên Chúa Cha tha thứ cho chúng ta. Tha thứ hết lòng là tha thứ thật lòng. Phải có lòng tha thứ, và nếu có lòng sẵn sàng tha thứ rồi, thì không cần tính toán, đến sổ xem bao nhiêu lần nữa.

Chúng ta cũng lưu ý thêm rằng: ở đây, Chúa Giêsu không nói gì đến phần mà kẻ gây ra sự xúc phạm phải làm. Chúa nói đến ở nơi khác, chẳng hạn như nơi đầu chương 18, khi Chúa nói về việc đừng làm gương xấu cho trẻ nhỏ, về việc Thiên Chúa Cha không muốn cho bất cứ ai phải hư mất. Như mục tử nhân lành, Chúa đi tìm con chiên lạc, để đem trở về đoàn.

Rao giảng sự tha thứ không giới hạn, Chúa Giêsu không có ý nhượng bộ hay chấp nhận sự ngoan cố của người phạm lỗi, gây ra xúc phạm cho anh chị em. Ở đây, khi nói về sự tha thứ không giới hạn, như Thiên Chúa tha thứ cho ta, Chúa Giêsu muốn nói đến thái độ của nguời bị xúc phạm: không nên nuôi dưỡng tâm tình trả thù, mà phải biết tha thứ. Tha thứ có giới hạn bao nhiêu lần, có nghĩa như là không tha thứ. Giả sử như Chúa Giêsu đặt ra một giới hạn bao nhiêu lần, thì có thể chúng ta, hay anh chị em sẽ chú tâm vào việc đếm sao cho mau đủ số lần, để rồi sau đó có thể hành động để thỏa mãn bản năng trả thù. Tha thứ có giới hạn, tha thứ theo con số, sẽ làm phát sinh sự ích kỷ thêm mà thôi. Phêrô và các môn đệ theo bên cạnh Chúa không có chọn lựa nào khác hơn là tha thứ thật lòng và tha thứ như Chúa đã tha thứ.

Nguời đồ đệ của Chúa phải sống theo sự thôi thúc của tình thương đối với Chúa và đối với anh chị em, chớ không theo tình thương ích kỷ đối với chính mình. Người đồ đệ Chúa phải xét xử và hành động theo ánh sáng của Chúa Thánh Thần và với những tâm tình của Chúa Giêsu Kitô. Nói rộng thêm, người đồ đệ của Chúa Kitô không đặt giới hạn cho điều tốt mà mình muốn làm. Hãy thực hiện điều tốt với hết lòng sẵn sàng, hết sức mình có thể, và theo như mẫu gương của Chúa.

 

XIII.
Phần Thưởng
của Nguời Tông Ðồ

Trong Phúc Âm theo thánh Mathêu, liền sau biến cố cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và chàng thanh niên giàu có muốn được sự sống đời đời, chúng ta đọc thấy một cuộc đối thoại khác nữa giữa Chúa Giêsu và Phêrô. Nơi chương 19, câu 27-29, tác giả Phúc âm theo Mathêu đã ghi lại như sau:

Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu: Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì? Chúa Giêsu đáp: Thầy bảo thật anh em: anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời tái sinh, khi Con Nguời ngự Tòa Vinh Hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên 12 tòa mà xét xử mười hai chi tộc Israel. Và phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì Danh Thầy, thì sẽ được gấp bội, và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp (Mt 19,27-29).

Trước khi Phêrô đặt vấn đề với Chúa, thì chàng thanh niên giàu có đã hỏi Chúa Giêsu: Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt, để được hưởng sự sống đời đời? Chàng thanh niên tốt lành đó không bằng lòng với việc tuân giữ giới răn Chúa mà thôi. Anh ta muốn điều trọn hảo hơn. Và Chúa Giêsu chỉ cho anh con đường sống trọn hảo; đó là: "Nếu con muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của con và đem cho người nghèo, con sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo Ta". Ðó là con đường từ bỏ mọi sự để theo Chúa trọn vẹn. Phúc âm kể là chàng thanh niên buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Chúa Giêsu đã nhiều lần cảnh cáo các môn đệ về nguy hiểm của lòng bám víu của cải. Và họ vừa chứng kiến một sự việc cụ thể chứng minh cho lời Chúa dạy. Phêrô liền lên tiếng thưa Chúa: Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì? Phêrô không còn nhìn lại sau lưng nữa. Phêrô không muốn trở lui, nhưng nhìn lên phía trước, nhìn về tương lai. Hiện tại, Ông và các môn đệ, đã từ bỏ tất cả để theo Chúa. Vậy thì trong tương lai, sẽ được gì đây? Vài nhà chú giải cho rằng, khi hỏi Chúa Giêsu như vậy, Phêrô không có thái độ nghi ngờ về những Lời Hứa của Chúa mà ông và các môn đệ đã nghe qua trước đó cho chàng thanh niên, cho những ai từ bỏ mọi sự mà theo Ngài. Hỏi Chúa Giêsu như vậy, Phêrô chỉ muốn được nghe Chúa bảo đảm. Lúc nầy đây, Chúa và các môn đệ đang trên đường về gần đến Giêrusalem, nơi mà Chúa đã loan báo trước cho các môn đệ là Ngài sẽ phải bị nộp, và chịu chết trong tay những kẻ chống đối Ngài. Tính cho đến cuộc đối thoại nầy, Chúa Giêsu đã hai lần báo trước cho các môn đệ về cuộc thương khó của Người tại Giêrusalem. Giờ của Chúa sắp đến. Và không bao lâu nữa Chúa sẽ loan báo lần thứ ba về cuộc Thương Khó của Chúa: Con Nguời sẽ bị giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại. Chiến thắng của Chúa sẽ đến sau cái chết.

Dĩ nhiên, như chúng ta đã nhận thấy, Phêrô và các môn đệ không hiểu, và do đó không chấp nhận hoàn toàn điều sắp xảy ra cho Chúa. Khi từ bỏ mọi sự, dù không phải là nhiều gì cho lắm, vì các ngài là những kẻ sống nghề chài lười nơi biển hồ Galilê, khi từ bỏ những gì mình có để theo Chúa, Phêrô và các môn đệ hy vọng được tham dự vào thành công của Chúa, của Ðấng Thiên Sai. "Chúng tôi đã gặp Ðấng Thiên Sai", đó là khám phá khởi đầu của Anrê, anh Phêrô. Và Anrê đã chia sẻ điều đó cho Phêrô, rồi dẫn Phêrô đến gặp Chúa Giêsu (Gn 1,35-44). Giờ đây, sau thời gian theo Chúa, và trước viễn tượng không sáng sủa mà Chúa vừa hé mở ra cho các môn đệ, Phêrô cảm thấy cần được Chúa trấn an, nên hỏi: Phần chúng con đây, thì sao? Chúng con đã từ bỏ mọi sự mà theo Thầy đây? Trong tâm trí Phêrô có một sự dằng co chưa được giải quyết ổn thỏa: Phêrô đã biết -- sau biến cố Chúa Biến Hình trên Núi và sau bao nhiêu dấu lạ Chúa đã thực hiện -- Phêrô đã biết: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa; và Phêrô cũng đã tuyên xưng rõ ràng: Thầy là Con Thiên Chúa; nhưng đàng khác, làm sao dung hòa khía cạnh nầy với thực tại đau buồn sắp xảy ra tại Giêrusalem như Chúa vừa loan báo. Con Thiên Chúa mà phải chịu chết đóng đinh vào thập giá như vậy, thì số phận của mình sẽ ra như thế nào đây? Thắc mắc của Phêrô cũng là thắc mắc của mỗi người chúng ta đang theo Chúa ngày hôm nay.

Khi dấn bước theo Chúa, chúng ta đã được giúp cho biết là sẽ phải đi trên con đường thập giá để theo Chúa. Nhưng chúng ta sống thực tại đó như thế nào? Khi gặp thử thách, chúng ta có thể thắc mắc: rồi đây mình sẽ ra sao? Tương lai đời mình sẽ như thế nào? Lời Hứa của Chúa sẽ được thực hiện nơi cuộc đời chúng ta như thế nào? Như Phêrô, chúng ta cần nghe Lời Chúa trấn an: Chúng con sẽ được gấp bội và được sự sống đời đời. Ước chi tình yêu Chúa nâng đỡ chúng ta luôn.

 

XIV.
Mẫu Gương của
Việc Phục Vụ Huynh Ðệ

Dù đã được Chúa Giêsu huấn luyện đặc biệt hơn dân chúng, được nhìn thấy những dấu lạ Chúa đã thực hiện, nhưng cho đến phút chót, khi sắp bước vào bửa Tiệc Ly với Chúa, các môn đệ còn tranh tụng với nhau xem ai là kẻ lớn nhất trong Nước Chúa. Trên đường tiến về Giêrusalem, nhóm tông đồ đã tỏ ra ganh tị với hai anh em con ông Giêbêđê, vì đã dám xin "cho được ngồi bên tả bên hữu Chúa". Vì thế, trong Bửa Tiệc Ly, Chúa Giêsu bất ngờ đứng lên, bưng chậu nước đến quỳ xuống rửa chân cho Phêrô trước tiên. Phêrô vội vàng phản đối: "Không thể được. Thầy mà rửa chân cho con sao? Con không bao giờ để Thầy rửa chân cho con đâu ." Chắc chắn không phải chỉ có Phêrô phản đối mà thôi, nhưng những tông đồ khác cũng không thể nào đồng ý để Chúa làm như vậy. Chúa Giêsu đã trả lời cho Phêrô: Nếu Thầy không rửa chân cho con, thì con không thể dự phần nào với Thầy được nữa cả. Phêrô chưa thể hiểu hết ý nghĩa của câu nói của Chúa Giêsu, nhưng Phêrô không thể nào để mất đi "mối tương quan Thầy-Trò" mà ông quý trọng nhất. Vì thế từ thái cực nầy, Phêrô sang thái cực khác: Vậy, thưa Thầy, không những chỉ rửa chân, mà rửa tất cả, đầu tay chân con ." (Gn 13,9). Và sau khi đã thi hành xong việc Rửa Chân cho tất cả các tông đồ, Chúa Giêsu trở lại chỗ của mình, và giải thích như sau:

Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa, điều đó phải lắm, vì Thầy quả thật là Thầy, là Chúa. Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như thầy đã làm cho anh em (Gn 13,12-14).

Mặc dù Chúa Giêsu giải thích cho tất cả, nhưng chắc hẳn Phêrô hiểu bài học trên có liên quan đến chính mình nhiều nhất, như là kẻ đã được Chúa chọn làm "Ðá Tảng trên đó Giáo Hội Chúa được xây lên". Phêrô chắc hẳn chưa quên được lời Chúa hứa trao cho ông nắm giữ "Chìa Khóa" Nước Trời. Quyền hành Chúa trao cho không phải là để thống trị trên kẻ khác, mà là để phục vụ, như Chúa đã có lần giảng dạy: Ta đến không phải để được hầu hạ, được phục vụ, mà là để phục vụ cho kẻ khác. Ai là kẻ lớn nhất trong anh em, phải là kẻ nhỏ nhất, phục vụ mọi người. Sự cao cả của Phêrô hệ tại nơi việc phục vụ tất cả những ai Chúa trao phó cho.

Thái độ nội tâm đầu tiên cần phải có, để chu toàn lời dạy nầy của Chúa Giêsu là thái độ khiêm tốn. Càng khiêm tốn, thì càng sẵn sàng phục vụ, sẵn sàng trở nên người tôi tớ của anh chị em, của tất cả mọi người. Thánh Phaolô tông đồ, nơi thơ Philiphê chương 2, câu 3, đã trình bày nguyên tắc sống sau đây: Mỗi người trong anh em hãy có lòng khiêm tốn mà nghĩ rằng người anh em kia hơn mình. Trong viễn tượng Kitô, chúng ta có thể nói là những hoàn cảnh, những địa vị thấp hèn, không làm cho người ở trong địa vị đó, trở nên thấp hèn. Ðó là những hoàn cảnh, những vai trò, những cơ may, để mỗi người phục vụ Chúa và anh chị em, với hết khả năng, sức lực của mình. Sự cao cả của một người không hệ tại ở trách vụ được trao phó cho, nhưng hệ tại ở cách thức người đó chu toàn trách vụ.

Sự khiêm tốn, trong thực tế, trong thân phận làm người, là nhân đức giúp ta thực hiện sự công bằng. Nó giúp ta nhìn nhận và khen ngợi điều tốt bất kỳ điều tốt có mặt nơi đâu. Nhờ khiêm tốn, chúng ta thẩm định được phẫm giá của anh chị em, và kính trọng phẩm giá đó. Từ sự kính trọng nầy, chúng ta sẽ dễ dàng thực hiện những việc phục vụ vì tình thương, chu toàn trọn vẹn đức bác ái đối với anh chị em.

 

XV.
Bài Học của Lỗi Lầm:
Tình Yêu có thể
trở thành tự phụ

Cuộc đời của Phêrô, nhất là những sơ sót lỗi lầm của ngài, luôn luôn là những đề tài hết sức quen thuộc cho những suy tư tu đức. Những lỗi lầm của ngài cũng thường là những lỗi lầm của chúng ta, và có giá trị hướng dẫn chúng ta vượt qua những giây phút ngã lòng. Thánh Phêrô đã khiêm tốn công khai hóa những lỗi lầm của mình trong giáo hội sơ khai, và xem đó như là dịp để chứng tỏ với Chúa tâm hồn thống hối ăn năn thật sự. Với bài suy niệm hôm nay, chúng ta bắt đầu đi vào giai đoạn quan trọng của mối tương quan giữa Chúa Giêsu và thánh tông đồ Phêrô, trong khung cảnh của mầu nhiệm Vượt Qua, mầu nhiệm của cuộc khổ nạn, chết và sống lại của Chúa Giêsu. Biến cố khai mạc cho giai đoạn nầy là bửa tiệc ly và việc Chúa Giêsu cúi mình rửa chân cho các tông đồ, và Phêrô là người đầu tiên phải đối diện với hành động đặc biệt nầy của Chúa. Là Ðá Tảng trên đó Chúa Giêsu xây dựng Giáo Hội, là kẻ đã được Chúa chọn trao cho chìa khóa Nước Trời, thánh Phêrô hơn ai hết, phải là kẻ đầu tiên đón nhận bài học Rửa Chân được Chúa thực hiện cho các môn đệ trong bửa tiệc ly. Bầu khí lúc đó thật là trang trọng và khẩn trương, vì các môn đệ có thể đã cảm nghiệm được giờ hy sinh của Chúa đến gần. Trong khi mà các tông đồ, và cả Phêrô nữa, đều chưa lĩnh hội hết ý nghĩa của bài học Rửa Chân, thì cá nhân Phêrô lại phải đương đầu với một thách thức mới liên quan đến chính mình. Tác giả Phúc âm theo thánh Gioan đã mô tả nhiều chi tiết quan trọng liên quan đến biến cố nầy, nơi bốn chương 13,14,15,16, của Phúc âm theo thánh Gioan.

Chúng ta hãy cố gắng trở về với bầu khí trang trọng của bửa tiệc ly, và chú ý quan sát những tâm tình của Chúa Giêsu và của các tông đồ, nhất là của Phêrô, trong giây phút đó. Sau khi Rửa Chân cho các ông, Chúa Giêsu giải thích ý nghĩa: đây là bài học về tình yêu thương phục vụ lẫn nhau. Rồi Chúa Giêsu "xúc động, xao xuyến" loan báo điều không may lành chút nào. Chúa nói: "Thật, Thầy bảo thật anh em, có một người trong anh em sẽ nộp Thầy". Sao, một kẻ phản bội trong hàng ngủ của nhóm 12, của những người đã được Chúa chọn riêng ra, đã sống với Người từ mấy năm qua? Nghe những lời loan báo nầy, chắc chắn Phêrô phải bị xúc động mạnh lắm. Phêrô không thể nào chấp nhận một hành động phản bội như vậy của anh em, và của chính mình đối với Chúa. Phêrô chưa có khiêm tốn đủ, để chấp nhận lỗi lầm của anh em và của cả chính mình. Phêrô muốn biết nguời phản bội đó là ai, nên ra hiệu cho Gioan, đang ngồi gần bên Chúa, để hỏi cho biết. Ðây cũng là phản ứng tự nhiên. Con người tầm thường chúng ta hay có thái độ nầy, muốn tò mò biết xem kẻ khác xấu đến mức độ nào, muốn biết xem ai là kẻ phản bội Chúa. Phêrô và các tông đồ, ngoại trừ Gioan ra, chưa biết được người đó là ai, thì Giuđa nhận lệnh của Chúa: Việc con muốn làm thì hãy làm mau đi. Giuđa ra đi giữa sự bỡ ngỡ của các môn đệ lúc đó. Vài người tưởng rằng Chúa Giêsu nói với y: "hãy mua những món cần dùng trong dịp lễ", hoặc bảo y bố thí cho người nghèo (Gioan 13,29). Khi Giuđa đi rồi, Chúa Giêsu bắt đầu những lời nhắn nhủ quan trọng. "Giờ đây, Con Nguời được tôn vinh, hỡi anh em, những người bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi, Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm nầy, mọi người sẽ biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau ."(x. Gioan 13,31-35).

Những thử thách trong tương lai mà các tông đồ, các đồ đệ của Chúa phải trải qua, thì quả thật là muôn hình vạn trạng. Chúa Giêsu không chỉ cho các ông bí quyết để tránh, mà bí quyết để sống qua, để thành công biến những thử thách, những gian nan đó, trở thành nguồn ân phúc cho mình và cho anh chị em. Bí quyết đó được Chúa Giêsu mặc khải trong Bửa Tiệc Ly, bằng hành động và lời nói, bằng việc cử hành Bí Tích Thánh Thể, để luôn sống kết hiệp với Ngài và với nhau, trong tình thương, để "ở lại trong tình thương". Trong giây phút đó, Phêrô chưa thể lĩnh hội trọn vẹn bài học. Phêrô chưa lường trước được khả năng của mình. Ông nghĩ là ông sẽ không như người phản bội mà Chúa vừa nói đến, nên đã công khai bộc lộ: "Con sẽ thí mạng con vì Thầy". (Gioan 13,37). Nơi Phúc âm theo thánh Mathêu, thì chúng ta có thêm lời tuyên bố sau đây của Phêrô: "Dù tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã" "Dù có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy" (Mt 26,33.35). Phêrô lúc đó rất tự tin vào tình thương của mình đối với Chúa.

Phêrô hỏi Chúa thêm: "Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy? Chúa Giêsu trả lời: Nơi Thầy đi, bây giờ con không thể theo đến được; nhưng sau nầy, con sẽ đi theo ." Phêrô thưa: Thưa Thầy, sao con lại không thể đi theo Thầy ngay bây giờ được? Con sẽ thí mạng con vì Thầy. Chúa Giêsu đáp: Con sẽ thí mạng con vì Thầy ư? Thật, thầy bảo cho con biết: gà chưa gáy, con đã chối Thầy ba lần" (Gn 13,36-38).

Mẩu đối thoại trên giữa Chúa Giêsu và thánh Phêrô gợi lên trong chúng ta nhiều ý nghĩ.

Chúa Giêsu không từ chối tình thương của Phêrô đối với Chúa, một tình thương sẵn sàng làm cho ông muốn đi theo Chúa bất cứ nơi nào Chúa đi, cùng chết với Chúa, hay đúng hơn, sẵn sàng chết thay cho Chúa. "Con sẽ thí mạng con vì Thầy". Chúa Giêsu không từ chối, nhưng ngài dành tình thương đó lại vào lúc khác: "Nơi Thầy đi, bây giờ con không thể theo đến được. Nhưng sau nầy, con sẽ đi theo". Phêrô còn phải ở lại để lãnh đạo Giáo Hội Chúa, thực thi chương trình của Chúa. Chúa muốn thanh luyện tình thương của Phêrô đối với Chúa. Chúa như muốn nhắc nhở cho Phêrô biết rằng tình thương của Phêrô đối với Chúa còn non yếu, chưa đủ sức đối đầu với thử thách đang chờ đón Phêrô: Con muốn thí mạng sống vì Thầy ư? Thật, Thầy bảo thật cho con biết: gà chưa gáy, con đã chối Thầy ba lần ."Tình yêu của con người, tự sức mình chỉ yêu mến Chúa đến mức độ nầy thôi. Tình yêu của lời hứa vì sốt mến lúc ban đầu, nhưng tự nó không đủ sức đi xa, vượt qua những thách thức.

Khi Phêrô nói: "Con sẵn sàng thí mạng sống con vì Thầy", Phêrô không nói láo. Và cũng không táo bạo hứa ẩu. Phêrô thành thật khi nói với Chúa như vậy. Chúa biết Phêrô yêu mến Chúa. "Thầy biết con yêu mến Thầy mà". Và Phêrô cũng đã hành động để chứng tỏ tình yêu mến của mình đối với Chúa. Ðó là khi nhóm lính đến vườn cây dầu để bắt Chúa, thì Phêrô đã rút gươm bênh vực Chúa. Tác giả Phúc âm theo thánh Guioan đã ghi lại biến cố nầy, nơi chương 18, câu 10 như sau: "Ông Simon Phêrô có sẵn một thanh gươm, bèn rút ra, nhằm người đầy tớ vị Thượng Tế, mà chém đứt tai phải của y. Nguời đầy tớ ấy tên là Mankho. Chúa Giêsu nói với Phêrô: Hãy xõ gươm vào bao. Chén đắng Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống".

Ðó, Phêrô chứng tỏ tình thương thành thật của mình như vậy. Tình thương con người phàm trần cản trở chuơng trình của Thiên Chúa, cản trở Chúa Giêsu thực hiện Thánh Ý Thiên Chúa Cha. Ðây không phải là lần đầu tiên tình thương phàm trần của Phêrô cản trở Chúa Giêsu thực hiện chương trình của Thiên Chúa Cha. Trước đây, khi Chúa Giêsu loan báo về cái chết của Ngài tại Giêrusalem, thì Phêrô cũng đã nhanh nhẹn lên tiếng ngăn cản Chúa, đến độ bị Chúa trách: Hãy lui ra khỏi ta, Satan. Con không suy nghĩ theo cách thức của Thiên Chúa mà của con người phàm trần. Phêrô còn cần được thanh tẩy rất nhiều. Tình thương của Phêrô đối với Chúa còn cần được thanh luyện, để trở nên mạnh mẽ hơn. Tự sức mình con người chỉ yêu mến Chúa đến một giới hạn nào đó mà thôi: "Con sẽ thí mạng sống mình vì Thầy ư? Thật, Thầy bảo cho con biết: gà chưa gáy, con đã chối Thấy ba lần ." Thử thách vừa đến, không được bao lâu, "gà chưa gáy", mà tình thương của Phêrô đã bị phá vở rồi. Ðó là bài học cho chúng ta ngày hôm nay. Hứa yêu mến Chúa mà thôi, chưa đủ. Yêu mến Chúa với sức riêng của mình mà thôi cũng chưa đủ. Cần phải cầu nguyện.

Cầu xin Chúa ban cho chúng ta được ơn yêu mến Chúa. Xin Chúa dạy chúng ta biết yêu mến Chúa. Xin Chúa ban cho chúng ta sức mạnh của Chúa, ân sủng của Chúa, để yêu mến Chúa.

Ðó là điều mà Chúa Giêsu nhắc các môn đệ, trong bài diễn văn dài trong bửa tiệc ly, mà tựu trung là: Hãy ở lại trong tình yêu Thầy. Hãy sống liên kết với Thầy, như ngành nho vào thân nho. Không Thầy, chúng con không làm gì được. Sau giây phút sa ngã, Phêrô hiểu rõ bài học nầy hơn. Và có thể chúng ta cũng vậy.

Ước muốn của Phêrô là ước muốn thành thật, khi Ông nói với Chúa: Con sẽ thí mạng con vì Thầy (Gn 13,37). Và Chúa Giêsu chắc cũng vui lòng vì đó. Nhưng Ngài sẽ vui lòng hơn nữa, nếu Phêrô không cậy dựa vào sức riêng mình để yêu mến Ngài, để hy sinh cho Ngài, mà trái lại biết khiêm tốn nương tựa vào Chúa, để yêu mến Chúa. Nói cách khác, ước muốn phải được đưa vào trong lời cầu nguyện, để có thể hữu hiệu và bền vững. Chúa Giêsu muốn chúng ta có ước nguyện yêu mến Ngài, muốn chúng ta ao ước đạt đến sự trọn lành của tình yêu thương, muốn cho những dự án tông đồ của chúng ta to lớn. Nhưng, còn hơn thế nữa, những ước muốn, mơ ước, của người Kitô, của người đồ đệ phải được đưa vào trong lời cầu nguyện, phải được trở thành lời cầu nguyện. Chúng ta cần Ơn Chúa để thực hiện những ước muốn tốt đẹp. Quy luật hành động của Phúc âm là: Không Thầy, chúng con không làm chi được. Hãy ở trong tình yêu Thầy. Và: "Ai nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên ."

Thánh Philip Neri đã soạn ra cho chính mình nhiều lời nguyện tắt, để giúp mình nhớ đến Chúa, sống khiêm tốn trước nhan Ngài. Thánh Nhân không dám dùng công thức: Lạy Chúa, con yêu mến Chúa. Nhưng dùng công thức: Lạy Chúa Giêsu, con sẽ không thể yêu mến Chúa cho đủ, nếu Chúa không giúp con. Con đã không bao giờ yêu mến Chúa, giờ đây con ao ước yêu mến Chúa, nhưng nếu Chúa không giúp con, thì con sẽ không yêu mến Chúa cho đủ, sẽ thất bại.

Thánh Philip Neri còn đi xa hơn nữa đến độ thánh nhân cầu nguyện như sau: Lạy Chúa, xin lưu ý, con có thể phản bội Chúa, có thể xúc phạm đến Chúa, nếu Chúa không trợ giúp con ."

Lời Thánh Vịnh chúng ta đọc hằng ngày luôn nhắc nhở chúng ta: Ơn Phù Trợ chúng ta ở nơi danh Chúa, là Ðấng tạo thành trời đất. Chúng ta yếu đuối, nhưng lại được Thiên Chúa quyền năng hiện diện sẵn bên cạnh để trợ giúp. Mà chúng ta thì lại thường thờ ơ với điều nầy. Bài học của Thánh Phêrô có thể thức tỉnh chúng ta, và chúng ta hãy quyết định hằng ngày cầu nguyện, hằng giờ nâng tâm hồn mình lên cùng Chúa nhờ lời nguyện tắt:

Trong ngày sống, chúng ta cần những giây phút cầu nguyện, nâng tâm hồn mình lên cùng Chúa, nhờ qua những lời nguyện tắt tự phát giống như vậy, để giúp ta "thánh hóa lý tưởng sống của mình" mà không rơi vào sự tự phụ kiêu ngạo, không rơi vào sự ỉ lại. Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta không thể nào tiến lên trưởng thành, và cũng không thể nào duy trì đà tiến mỗi ngày một tốt đẹp hơn, nếu chúng ta quên sự "mỏng dòn không đủ sức của mình", hay nói theo ngôn ngữ của Thánh Phaolô Tông Ðồ, nếu chúng ta không xác tín rằng "tất cả những tài năng của chúng ta đều đến từ Thiên Chúa" (2 Co 3,5), nếu chúng ta không thực hiện được lý tưởng sống như thánh Phaolô "Tôi sống, nhưng không phải là tôi mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi ." " Nhờ ơn Chúa, tôi được như thế nầy". Thánh Phaolô không dấu giếm những cố gắng, những hy sinh của chính ngài, nhưng đồng thời ngài cũng ý thức là có Chúa cùng làm việc với ngài. Nơi thơ 1 Côrintô chương 15, câu 10, ngài đã tâm sự như sau: Tôi đã làm việc cực nhọc nhiều hơn tất cả, nhưng đúng hơn, không phải là riêng một mình tôi, nhưng có ân sủng của Chúa cùng hoạt động với tôi ." Thánh Phaolô hãnh diện không phải nơi công việc đã làm được, nhưng nơi chính những yếu đuối của ngài, nơi kinh nghiệm của bản thân về những thiếu sót của mình, vì chính trong những thiếu sót, bất toàn, yếu đuối đó, sức mạnh của Thiên Chúa được thể hiện.

"Thưa Thầy, con sẵn sàng thí mạng sống con vì Thầy", Phêrô đã thành thật tuyên bố như vậy, để dâng hiến cho Chúa trọn cả con người ông. Chúa Giêsu có thể nói là chấp nhận lễ dâng nầy của Phêrô, nhưng Chúa nhắc thêm: "Trước khi gà gáy, con sẽ chối thầy ba lần" ." Con chưa theo Thầy ngay bây giờ được", "Con sẽ theo Thầy sau nầy". Phêrô quên rằng ông không thể hy sinh trước Chúa, hy sinh trước hy sinh của Chúa. Chúa dâng hiến chính mình cho chúng ta trước, chịu chết cho chúng ta trước, để rồi sau đó, chúng ta có được sức mạnh để theo Ngài.

Mỗi người chúng ta cần nhớ rõ rằng sự thánh thiện không phải là một cái gì dễ đạt đến trong chớp mắt, với một quyết định của ý chí mà thôi. Không phải như vậy. Không phải hễ muốn nên thánh là đã thánh thiện rồi. "Không phải những ai chỉ nói: Lạy Chúa, Lạy Chúa, là vào được Nước Trời". Mỗi người chúng ta cần đạt đến sự thánh thiện, một cách có hệ thống, bằng những cố gắng hằng ngày, từng bước một tiến lên sự thánh thiện, và trưởng thành trong sự thánh thiện. Mỗi ngày một ít lầm lỗi hơn, mỗi ngày một trở nên tốt lành hơn. Từng bước một, ta tiến đến sự thánh thiện, và thường khi giữa bước thứ nhất và bước thứ hai, ta bị té ngã nhiều lần. "Trước khi gà gáy, con đã chối thầy ba lần ."

Hơn nữa chúng ta cũng nên nhớ lại rằng sự thánh thiện của mỗi người có đặc sắc khác nhau, riêng biệt cho cảnh sống của từng người. Không có sự thánh thiện bắt chước giống nhau. Sự thánh thiện của người mẹ trong gia đình mang hình thức khác, có đặc điểm khác với sự thánh thiện của một nữ tu dòng kín, chẳng hạn. Thiên Chúa ban cho mỗi người một ơn gọi riêng. Ngài gọi chúng ta tiến đến sự thánh thiện từ trong hoàn cảnh cụ thể của mỗi người. Ngài ban cho mỗi người ơn sủng trợ giúp phù hợp với ơn gọi và sứ mạng riêng. Chúng ta không thực hiện chương trình mà chúng ta tự mình bày vẽ ra, nhưng là chương trình của Thiên Chúa, tại nơi Chúa muốn, vào lúc Chúa muốn. Bất cứ nơi nào Thiên Chúa an bài cho chúng ta, thì nơi đó chúng ta có vai trò không thể thay thế được. Nói cách khác, Thiên Chúa trao cho mỗi người một sứ mạng riêng, không ai có thể thay thế ta chu toàn sứ mạng đã lãnh nhận. Chúng ta không nên so sánh nhìn sang lãnh vực hay sứ mạng của kẻ khác. Chúa Giêsu Phục sinh đã nói với Phêrô, khi ông thắc mắc về số phận tương lai của Gioan, người đồ đệ được Chúa yêu mến. Chúa Giêsu phục sinh đã nói với Phêrô: Giả như Thầy muốn người đó còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến con. Phần con, hãy theo Thầy" (Gn 21, 22).

Có lúc Chúa sẽ nói với mỗi người chúng ta: Nơi Thầy đi, con chưa thể đến được ngay bây giờ. Sau nầy, con sẽ đến. Rồi sẽ đến lúc, Chúa nói: Phần con, hãy theo Thầy. Chúng ta đừng dâng cho Chúa điều Chúa không muốn nơi chúng ta. Hãy dâng cho Chúa tất cả và bất cứ điều gì Chúa muốn. "Ðây, con sẽ thí mạng sống con vì Thầy". Hãy cố gắng lắng nghe Chúa nói với mỗi người, để biết Chúa muốn gì nơi mỗi người. Hãy sẵn sàng chấp nhận việc bổn phận. Hãy sẵn sàng để cho Chúa quyết định phần đóng góp của chúng ta, và nhiều ít tùy theo ý Chúa. Thánh Vinh Sơn đệ Phaolô, khi nhận thấy Chúa không làm xong một nửa công việc mà quyền năng vô cùng của Chúa có thể làm, đã rút ra kết luận như sau: "Hãy bắt chước Chúa, Thầy chúng ta, đặc biệt trong việc giữ chừng mực của Ngài. Ngài đã không muốn làm tất cả những gì quyền năng Ngài có thể làm, để dạy cho chúng ta bài học biết bằng lòng , khi chúng ta không làm tất cả những gì chúng ta ao ước ." Ðôi khi chúng ta mơ ước làm những gì đâu đâu, mà lơ là với chính công việc bổn phận hằng ngày.

Thưa Thầy, con sẵn sàng liều mạng sống vì Thầy. Phải, Phêrô đã nói lên những lời đó với hết tình yêu thương chân thành đối với Chúa. Nhưng, tình thương chân thành nầy, trong giây phút trước cuộc tử nạn của Chúa, không to lớn cho bằng tình thương chân thành mà Phêrô có sau khi đã chối Chúa, một tình thương phát sinh từ tâm hồn khiêm tốn ăn năn sau lúc lầm lỗi và được tha thứ. Chúng ta hãy sẵn sàng theo Chúa, dâng Chúa những gì Chúa muốn, và xin Chúa ban cho chúng ta sức mạnh của Chúa, để chu toàn điều Chúa muốn.


 

XVI.
Chúa Giêsu
Cầu Nguyện cho Phêrô

Một cách đặc biệt, tác giả phúc âm theo thánh Luca đã kể lại cho chúng ta biết thái độ nhân từ của Chúa Giêsu đối với thánh Phêrô. Trước đây, khi Phêrô có thái độ sai lầm trước lời loan báo của Chúa về cuộc thương khó của Ngài tại Giêrusalem, thì Chúa Giêsu đã trách Phêrô: Hỡi Satan, hãy lui xa Ta. Con cản lối Ta, vì tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người"(Mt 16,23). Nhưng giờ đây, vào lúc cuối cùng, trước khi bước vào cuộc Thương Khó, và trước lỗi lầm Phêrô sắp phạm vì chối Chúa, thì Chúa không lên tiếng trách Phêrô nữa, nhưng lại mạc khải cho Phêrô biết là Chúa luôn cầu nguyện cho Ông. Tác giả Phúc âm theo thánh Luca, nơi chương 22, câu 31-32, đã ghi lại như sau:

Simon, Simon, kìa Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho con, để con khỏi mất đức tin. Phần con, một khi đã trở lại, thì hãy làm cho các anh em con nên vững mạnh (Luc 22,31-32).

Chúa Giêsu gọi Phêrô bằng tên gọi củ là Simon, như thể muốn nhắc đến con người trơ trọi của ông. Con người đó, cũng như tất cả chúng ta đây, không thể nào không gặp thử thách, không thể nào không bị thần dữ cám dỗ. Chúa mạc khải cho Phêrô biết, là nhóm tông đồ sẽ phải đương đầu với những cám dỗ của thần dữ: Simon, Simon, kìa Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo.

Ðây không phải chỉ là cám dỗ bình thường, mà là thử thách cam go, như hạt gạo bị sàng, phải bị chao đảo dữ dằn. Mà thật vậy, cuộc Thương Khó và cái Chết của Chúa, việc Chúa xem ra như bất lực trước những kẻ thù của Ngài, là một thử thách vô cùng lớn lao cho những đồ đệ của Chúa. Lỗi lầm Phêrô chối Chúa ba lần cần được hiểu trong khung cảnh những thử thách mà các đồ đệ của Chúa gặp phải. Mặc cho những lời thề hứa mạnh mẽ của Phêrô: Lạy Chúa, với Chúa, con sẵn sàng vào tù và có chết cũng cam. Tác giả phúc âm theo thánh Matheu và Marcô, còn thêm chi tiết: Tất cả đoàn môn đệ theo Chúa cũng đều nói như vậy. Trong những bài suy niệm trước, chúng ta đã chú ý nhiều đến thái độ của thánh Phêrô.

Giờ đây, chúng ta hãy chiêm ngắm thái độ của Chúa Giêsu: Chúa không còn trách nữa, nhưng bảo đảm là cầu nguyện cho Phêrô, để đức tin đừng bị mất đi. "Thầy cầu nguyện cho con, để con khỏi mất lòng tin". Nhưng không phải chỉ liên hệ đến việc cá nhân của Phêrô mà thôi, không phải chỉ có liên hệ với Ðức Tin của Phêrô không mà thôi, nhưng còn liên hệ đến vai trò, đến sứ mạng của Phêrô đối với anh em, đối với những chiên Mẹ, chiên con mà Phêrô phải chăn dẫn. Phêrô lỗi lầm, nhưng Chúa không nhìn đến lỗi lầm, không dừng lại ở lỗi lầm đó, mà nhìn xa hơn đến tương lai trong đó Phêrô sẽ thi hành sứ mạng. "Phần con, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của con nên vững mạnh". Chúa Giêsu cầu nguyện cho Phêrô và còn cho Phêrô biết là Chúa không thay đổi chương trình đã trao cho Phêrô làm Ðá Tảng trên đó Chúa xây dựng giáo hội Chúa.

Thật là an ủi cho Phêrô biết là chừng nào khi nghe những lời bảo đảm nầy. Và thật là khích lệ cho Phêrô biết là chừng nào, sau đó, sau lỗi lầm đã phạm, trong suốt cuộc đời còn lại. Và cũng là điều thật khích lệ cho chúng ta ngày hôm nay, những con người tội lỗi. Thiên Chúa luôn luôn có dư thừa quyền năng để rút ra điều tốt từ những yếu đuối, những lỗi lầm của con người. Thánh Phaolô đã kinh nghiệm được điều nầy và đã thốt lên: Ðâu có tội lỗi nhiều, thì ân sủng càng dư đầy hơn nữa. Nói như thế không có nghĩa khuyến khích con người tiếp tục phạm tội, nhưng có nghĩa khích lệ con nguời đừng ngã lòng. Chúa Giêsu cầu nguyện cho Phêrô. Chúa Giêsu cầu nguyện cho chúng ta, cho các tội nhân mà Ngài đã đổ máu ra, để cứu chuộc. Thiên Chúa ban ơn giúp chúng ta vuợt qua thử thách, giúp chúng ta chỗi dậy sau khi đã ngã quỵ, với kinh nghiệm nhiều hơn, với nhân đức đã được thanh luyện, với sức mạnh nhưng đầy lòng khiêm tốn hơn, để nâng đỡ anh chị em: Phần con, sau khi đã trở lại, thì con hãy củng cố anh em con. Phêrô phải trải qua những thử thách như vậy, để rồi có thể chu toàn sứ mệnh làm Ðá Tảng nâng đỡ giáo hội của Chúa. Trường hợp của Phêrô là một bằng chứng, vừa là một lời mời gọi những ai còn nghi ngờ về sự tha thứ của Chúa, đừng nghi ngờ nữa, đừng thất vọng buông xuôi nữa. Chương trình của Thiên Chúa không bao giờ bị hư đi vì những lỗi lầm của con người. Lỗi lầm, nhưng đừng ngoan cố.


 

XVII.
Chúa Giêsu Khuyên các môn đệ:
Hãy Tỉnh Thức và Cầu Nguyện

Bửa Tiệc Ly chấm dứt. Chúa Giêsu đưa các môn đệ đến vườn Giếtsêmani, nơi Chúa và các ông trước đây thường hay đến. Trên đường đi đến vườn, Chúa Giêsu loan báo: Tất cả anh em sẽ vấp ngã, vì Kinh Thánh đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và chiên sẽ tan tác. Nhưng Phêrô liền thưa: Dù tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con đây cũng nhất định là không. Chúa Giêsu nói với Phêrô: Thầy bảo con, hôm nay, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy hai lần, thì con đã chối Thầy đến ba lần. Nhưng Phêrô lại nói quả quyết: Dù có phải chết với Thầy, con cũng không chối thầy. Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy. Ðó là bản tường thuật của tác giả Phúc âm theo thánh Marcô, nơi chương 14,26-31, về tâm thức của các môn đệ, và nhất là của Phêrô, lúc đó, lúc Chúa sắp bước vào vườn Giếtsêmani.

Tất cả đều nhất quyết theo Chúa cho đến cùng, nhất quyết không chối Chúa. Nhưng Chúa Giêsu biết rõ sức con người như thế nào. Ngài không thất vọng về các ông, nhưng căn dặn trước: "Nhưng sau khi sống lại, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em ." Chúa Giêsu tiếp tục con đường khổ nạn, và đặt ra điểm hẹn mới ở Galilê, chớ không phải nơi đồi Golgotha, nơi điểm chết trên thập giá. Và để đi đến điểm hẹn mới, Chúa Giêsu phải đi trọn con đường thập giá, và các môn đệ trải qua cuộc thử thách cam go. Ðể đi qua con đường nầy, đúng theo thánh ý Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã cầu nguyện: "Lạy Cha, nếu có thể được, thì xin cho con khỏi uống chén nầy. Nhưng không theo ý con, một xin vâng theo ý Cha mà thôi ." Trước đó, Chúa đã dạy các tông đồ lời Kinh Lạy Cha: Vâng ý Cha duới đất cũng như trên trời. Xem ra như các môn đệ chưa hoàn toàn ý thức về tầm mức quan trọng của sự cố mà Chúa và các ông đang trải qua. Các ông không thể cùng canh thức và cầu nguyện với Chúa. Cả ba tông đồ, Phêrô, Giacôbê và Gioan, những kẻ đã được Chúa đặc biệt xếp đặt theo Chúa lên núi chứng kiến biến cố Chúa biến hình, và giờ đây thì được Chúa đưa đến gần nơi Chúa cầu nguyện, hơn các tông đồ khác, cả ba ông cũng không tỉnh thức và cầu nguyện, mà lại ngủ say. Tác giả Phúc âm theo thánh Marcô, mà truyền thống cho là đồ đệ của thánh Phêrô, là người duy nhất ghi lại Lời Chúa trách riêng Phêrô trong giây phút đó như sau: Simon, con ngủ à? Con không thức nổi một giờ hay sao? Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối. Sau những lời trên, Chúa lại đi cầu nguyện như trước. (x. Marcô 14,37-38).

Tâm hồn quảng đại của các tông đồ, và cả của mỗi người chúng ta hôm nay, đều có giới hạn. Những ước muốn thành thật của các tông đồ ngày xưa, và của chúng ta hôm nay, cũng có giới hạn. Chúng ta không thể đo lường lòng sốt sắng của chúng ta theo Chúa, chỉ bằng mức độ mạnh yếu của những ước muốn suông. Bao lâu chúng ta chưa thể diễn tả những ước muốn đó ra bằng hành động, thì những ước muốn đó còn ở trong bình diện nói suông mà thôi. Ðể vâng phục thánh ý Thiên Chúa, mỗi người chúng ta đều cần ơn Chúa trợ giúp. Và để được ơn Chúa trợ giúp, thì cần phải tỉnh thức và cầu nguyện. Tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, để đừng bị rơi vào chước cám dỗ. Ðời chúng ta trải qua nhiều cám dỗ. Tỉnh thức và cầu nguyện, không phải là để đừng bị cám dỗ, nhưng là để đừng bị ngã quỵ trong cám dỗ. Cầu nguyện và phạm tội không thể đi chung với nhau cùng một lúc được. Một người sống kết hiệp thật sự và mạnh mẽ vào Chúa, thì không thể nào không vâng phục thánh ý Chúa: Vâng Ý Cha dưới đất cũng như trên trời. Tỉnh thức và cầu nguyện, đó là bí quyết thành công vuợt qua được những cám dỗ. Sự tỉnh thức tinh thần nầy cần được thể hiện trong một chương trình sống cụ thể, để nâng đỡ những điểm yếu của chính mình, để gìn giữ ta khỏi những liều mạng nguy hiểm, để đừng nhường bước dễ dàng trước cám dỗ, để không bỏ qua những gì tốt đẹp mà ta đã quyết định làm. Một chương trình sống cụ thể, giúp ta kiểm soát một cách hữu hiệu những ảnh hưởng tiêu cực từ bên ngoài. Ðó là phương thế để tỉnh thức. Và trong sự tỉnh thúc đề phòng, chúng ta duy trì mối giây liên kết giữa ta và Chúa, duy trì việc cầu nguyện, để luôn luôn có sẵn và có đầy thần lực của Chúa. Phêrô, con không thức được với Thầy một giờ sao? Con ngủ sao? Hảy tỉnh thức và cầu nguyện để đừng sa vào chước cám dỗ.


 

XVIII.
Hãy chiến đấu
để làm chủ chính mình

Phúc âm thánh Gioan, nơi chương 18, câu 10-11, đã ghi lại phản ứng đầu tiên của Phêrô khi Chúa Giêsu bị bắt tại vườn Cây Dầu như sau:

Ông Simon Phêrô có sẵn một thanh gươm, bèn rút ra và nhằm người đầy tớ vị Thượng Tế mà chém đứt tai phải của y. Nguời đầy tớ ấy tên là Mankho. Chúa Giêsu nói với Phêrô: "Hãy xỏ gươm vào bao. Chén đắng Chúa Cha trao cho Thầy, lẽ nào Thấy chẳng uống ."

Biến cố nầy đều được cả bốn sách Phúc âm ghi lại. Nhưng chỉ nơi Phúc âm theo thánh Gioan, thì có nhắc ra rõ ràng là chính Phêrô là kẻ đã chém đứt tai của người đầy tớ của vị Thượng Tế, còn trong ba sách Phúc âm theo Mathêu, Marco và Luca, thì nói một cách trống là có một người trong nhóm rút gươm ra chém đứt lỗ tai của người đầy tớ vị Thượng Tế. Chúa Giêsu ra lệnh cho Phêrô: Hãy xỏ gươm vào bao. Chén đắng Chúa Cha trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống. Chúa Giêsu dùng từ Chén Ðắng để chỉ cuộc Thương Khó Ngài sẽ phải trải qua, đúng theo Thánh Ý Chúa Cha. Và chắc chắn là Phêrô, một trong ba môn đệ được Chúa Giêsu tách ra và đưa đến gần với Chúa hơn, gần nơi Chúa phủ phục cầu nguyện, (chắc chắn là Phêrô) đã nghe được lời cầu nguyện của Chúa Giêsu lúc đó. Chúa Giêsu nói với Thiên Chúa Cha nhiều lần về chén đắng nầy: Lạy Cha, nếu chén nầy không thể rời khỏi con, nhất định con phải uống, thì xin cho Ý Cha được thực hiện. ( Mt 26,42). Hơn nữa, trước khi bước vào cuộc Thương Khó, khi còn trên đường tiến về Giêrusalem, trả lời cho hai anh em Gioan và Giacôbê xin cho được ngồi bên tả bên hữu Chúa, thì Chúa Giêsu đã trả lời nhắc đến chén Ngài uống, chỉ về cuộc Khổ Nạn, như sau: Các người có uống được chén Ta sắp uống không. Họ thưa: chúng con có thể làm được. Chúa Giêsu đáp: Chén Thấy uống, các con sẽ uống. Nhưng việc ngồi bên tả hữu Thầy, thì Thầy không có quyền cho. Cha Thầy chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được. ( Mt 20,20-23).

Trở lại biến cố chúng ta muốn suy niệm hôm nay: Phêrô dùng gươm để bênh vực Chúa. Ông đã hành động thực sự, đã chém đứt tai của một người trong nhóm người đến bắt Chúa Giêsu. Chúa Giêsu ra lệnh cho Phêrô: Hãy xỏ gươm vào vỏ. Chén Ðắng Thiên Chúa Cha trao cho, lẽ nào Thầy không uống.

Chưa được Thánh Thần của Chúa Phục Sinh thanh luyện và trợ giúp hướng dẫn, lòng nhiệt thành của Phêrô trong lúc đó đã thúc giục ông hành động theo tâm thức tự nhiên. Phêrô dùng gươm, dùng sức mạnh tự nhiên con người, dùng vũ lực, để bảo vệ Chúa Giêsu Thầy mình, như Ông đã thề hứa trước đó: Con sẽ liều mạng vì Thầy. Chúa muốn Phêrô liều mạng cho Chúa, hy sinh mạng sống mình cho Chúa, nhưng trong cách thức khác, cách thức Thiên Chúa muốn, chớ không phải cách thức của bạo lực trần toàn, sứ mạng đó tuyệt đối loại bỏ mọi hình thức xử gian. Chúng ta cần xác tín mạnh mẽ rằng: Sứ Mạng mà Chúa Giêsu phải chu toàn, sứ mạng tôn giáo mà ngày ngay những đồ đệ của Chúa, tất cả mọi người Kitô phải chu toàn, không xử dụng bạo lực. Nơi Phúc âm theo Thánh Mathêu, Chúa Giêsu giải thích nhiều hơn cho Phêrô, như sau:

Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm. Hay con tưởng là Thầy không thể kêu cứu với Cha Thấy sao? Nguời sẽ cấp ngay cho Thầy hơn muời hai đạo binh thiên thần. Nhưng như thế, thì lời Kinh Thánh ứng nghiệm sao được? Vì theo đó, mọi sự phải xảy ra như vậy. (Mt 26, 52-54).

Thật khó mà hành xử như Thiên Chúa muốn, như Chúa Giêsu nêu gương cho chúng ta, nghịch lại phản ứng tự nhiên con người, muốn trả thù, muốn xử dụng bạo lực, và đôi khi dưới danh nghĩa "để tự vệ". Bạo lực và xử dụng bạo lực luôn luôn nghịch lại tinh thần tình thương và hòa bình của Phúc âm Chúa: làm sao chúng ta có thể chúc phúc cho kẻ bách hại mình? Những người Kitô được mời gọi xử dụng nghị lực tinh thần của mình, xử dụng sức mạnh tinh thần, để chiến đấu chống lại sự dữ, tật xấu nơi chính mình, chớ không phải xử dụng nghị lực, tài năng trí tuệ, để thực thi bạo lực.


 

XIX.
Không thể theo Chúa xa xa

Việc Chúa bị bắt làm tan rã hàng ngũ các tông đồ, làm tiêu tan những mơ ước của họ. Thật là một thử thách hết sức cam go. Mặc dù Chúa Giêsu đã loan báo trước nhiều lần cho các ông, nhưng các ông chưa thể nào hiểu và chấp nhận một Ðấng Uy Quyền, đã từng xác nhận mình là Con Thiên Chúa bằng những phép lạ không ai có thể làm được bao giờ, mà lại chịu thua, để cho những kẻ chống đối bắt dẫn đi như vậy. Chúa đã nhắc cho Phêrô và các tông đồ việc Chúa tự nguyện làm như vậy, để chu toàn chương trình, để uống trọn chén đắng mà Thiên Chúa Cha muốn: "Con tưởng là Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy sao? Nguời sẽ cấp ngay cho Thầy hơn mười hai đạo binh thiên thần. Nhưng như thế, thì Lời Kinh Thánh ứng nghiệm sao được? Vì theo đó, mọi sự phải xảy ra như vậy ." (Mt 26,53). Sau nầy, trước mặt quan Philatô hăm dọa, Chúa Giêsu đã xác nhận mạnh mẽ như sau: Nước Tôi không thuộc về thế gian nầy. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian nầy, thì thuộc hạ của tôi đã chiến đấu, không để tôi bị nộp cho nguời Do Thái. (Gn 18,36). Và một lần nữa sau đó, khi quan Philatô hăm dọa: Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao?, thì Chúa Giêsu đã trả lời: Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho Ngài" (Gn 19,10-11).

Trong bửa tiệc ly, Chúa Giêsu đã giải thích cho các môn đệ:

Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để anh em tin khi sự việc xảy ra. Thủ lãnh Thế gian không làm gì được Thầy. Nhưng chuyện đó xảy ra là để cho thế gian biết rằng Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho Thầy ." (Gn 14,29.31).

Hạt giống phải chết đi mới trổ sinh nhiều hoa trái. Chúa đã giải thích trước cho môn đệ về cuộc thương khó của Nguời. Chúa sẽ bị bắt, chịu khổ nhục và bị giết chết. Nhưng ngày thứ ba, thì sẽ sống lại như lời Kinh Thánh loan báo trước. Nhưng các ông không hiểu. Phêrô cũng không hiểu. Lòng sốt sắng yêu mến Chúa đã thôi thúc Phêrô thề hứa với Chúa: Dù mọi người bỏ Thầy, nhưng con thì không. Con sẽ liều mạng vì Thầy. Giờ đây, trước biến cố thật sự đang diễn ra trước mắt, các tông đồ bỏ chạy, còn Phêrô thì theo Chúa xa xa, như phúc âm theo thánh Mathêu ghi lại. Không phải một mình Phêrô, mà còn có một môn đệ khác cùng đi với Phêrô. Môn đệ nầy quen với gia đình của vị thương tế, nên nhờ đó mà có thể đưa Phêrô vào trong sân, để nghe ngóng xem sự việc liên quan đến Chúa Giêsu sẽ ra sao (Gn 18,15). Phêrô xem ra như có can đảm hơn những môn đệ khác. Ông còn theo xa xa. Nhưng Phêrô không lường trước được sức mình. Ông đã đặt mình vào trong hoàn cảnh để rồi chối Chúa, khi bị tố cáo là đồ đệ của Chúa Giêsu. Việc "Theo Chúa xa xa" có thể diễn tả tâm trạng của Phêrô lúc đó: vừa lo sợ vừa do dự, chưa hẳn nhất quyết một lòng hy sinh cho Chúa, như đã thề hứa trước đó: dù ai có bỏ Thầy mặc kệ, nhưng con thì không. Con sẽ liều mạng vì Thầy.

Nói những lời trên, Phêrô chưa lường được sức mình. Và theo Chúa xa xa, bước vào nơi sân nhà của vị Thượng Tế, Phêrô đã liều mình thái quá, đã đặt mình vào trong hoàn cảnh nguy hiểm mà ông không thể làm chủ được nữa. Chỉ trong "nháy mắt" mà thôi, Phêrô đã sa ngã và thay đổi hẳn. Sự bất ngờ của cơn cám dỗ đã đánh ngã Phêrô. Linh mục Georges Chevrot đã phân tích thêm về hoàn cảnh bất ngờ phạm tội, như trường hợp của Phêrô, với những nhận định sâu sắc như sau:

"Giữa lúc mặt trời lặn và mặt trời mọc, một người có thể thiêu trọn điều mình tôn thờ, ngưng không cầu nguyện, không tin tưởng gì nữa cả, đánh mất trọn cả danh dự và nhân đức mình đã luyện tập được, bởi vì người đó đã bất ngờ rơi vào tội lỗi, lỗi phạm điều mà người đó không bao giờ ngờ trước là mình sẽ phạm. Tội lỗi nầy sẽ theo mãi người đó trong suốt cuộc đời còn lại, đảo ngược những xác tín đã có, thay đổi những phản ứng tình cảm, và làm cho con người đó như trở thành một người khác ." "Sự bất ngờ của cơn cám dỗ phạm tội làm cho đương sự sa ngã dễ dàng. Khi những ước muốn xấu xa xuất hiện mạnh mẽ, thì đương sự dễ dàng lưu ý và phản ứng đề phòng. Nhưng nhiều lúc một cám dỗ nhẹ nhàng, một hoàn cảnh lờ mờ, có thể dẫn đến một tội trầm trọng, nặng nề. Vì không lưu ý đề phòng, nên tội mà đương sự nghĩ là mình không thể phạm được, bất ngờ xảy đến làm cho đương sự không có thời giờ chống trả. Sau nầy, khi nhìn lại những hoàn cảnh đã thôi thúc mình phạm tội, đương sự không thể nào vạch rõ ra yếu tố nào là yếu tố chính làm mình phạm tội; và đương sự sẽ nhận thấy là bất cứ tội nào mình cũng có thể tránh được cả, nếu biết tỉnh thức đề phòng và cầu nguyện ."

Không thể theo Chúa xa xa, nửa chừng, do dự, và cũng không nên liều đưa mình vào sự nguy hiểm. Lỗi phạm của Phêrô khi chối Chúa là một sự bất ngờ, là một sự liều lĩnh của Phêrô đặt mình trong dịp tội. Phêrô không ngờ mình có thể đi đến việc chối bỏ Chúa Giêsu, Thầy mình, một cách bất ngờ và dễ dàng như vậy. Quan sát thêm về trường hợp nầy, chúng ta có thể nói thêm rằng: việc bất ngờ Phêrô chối Chúa, xét cho cùng, không phải là một bất ngờ, nhưng đã được "chuẩn bị" từ lâu trước. Cái chết bất ngờ đến với cơ thể con người, thật ra không phải là điều bất ngờ chút nào, mà là kết quả của sự hao mòn từ từ mỗi ngày một ít của cơ thể con người. Giống như việc một ngân hàng bị khánh tận, hay công việc đầu tư bị sạt nghiệp, không phải là điều bất ngờ, mà là điều được chuẩn bị từ từ, do bởi những quyết định sai lầm, từng bước một. Bức tường bị sụp đổ bất ngờ, nhưng không phải là điều bất ngờ, vì nó đã bị soi mòn từ từ, và đôi khi chỉ vì một lổ thủng nhỏ. Sự sa ngã của một người vào trong tội lỗi, xem ra như một bất ngờ, nhưng thật ra không bất ngờ chút nào cả. Ðó là kết quả của những hành động bất cẩn, ít nhiều vô ý, ít nhiều chiều theo cám dỗ. Có thể nói, khi phạm tội, đương sự đã có lỗi trước khi phạm tội, khi đương sự "giỡn chơi với lửa", khi đương sự khinh thường dịp tội, ỉ lại vào sức riêng mình và cho rằng mình không thể nào phạm tội được; có thể nói, đương sự như trở thành từ từ quen với hoàn cảnh, với điều lỗi phạm, để rồi bất ngờ, trong một giây phút ngắn ngủi, mù quáng, tự phụ, đương sự chối bỏ phẩm giá của mình, chối bỏ những lời thề hứa, chối bỏ đức tin. Ðương sự đã để mình sa ngã phạm tội, trước khi lỗi phạm. Mỗi người chúng ta đều có một hay nhiều yếu điểm. Những nhân đức đã luyện tập được, những tài năng mình có, tất cả không phải là bảo đảm chắc chắn cho đương sự không bị sa ngã. Chúng ta không nên mù quáng, không nên thờ ơ không canh chừng bảo vệ những yếu điểm của mình.

Phêrô có nhiều điểm tốt, nhiều khả năng, để được Chúa Giêsu chọn làm thủ lãnh tông đồ đoàn, làm Ðá Tảng trên đó Chúa xây dựng Giáo Hội. Nhưng Phêrô cũng có điểm yếu, và yếu điểm nầy có thể được chúng ta quan sát thấy xuất hiện nhiều lần, trong nhiều dịp khác nhau: yếu điểm đó là sự bồng bột nhất thời.

Linh mục Georges Chevrot, tác giả của tập sách về Thánh Tông Ðồ Phêrô, đã nhận định về dung mạo tinh thần của Phêrô trong hoàn cảnh chối Chúa như sau:

"Phêrô chỉ có một điểm yếu, phải, chỉ một điểm yếu mà thôi, nhưng đây là điểm yếu mà chúng ta thường thấy xuất hiện trong những lúc Phúc âm nhắc đến Phêrô; và điểm yếu đó là tính bồng bột nhất thời của ông. Mặc cho điều thiệt hại mà sự bồng bột nầy gây ra cho Phêrô lúc đó, và cho dù Chúa Giêsu đã lưu ý Phêrô nhiều lần về yếu điểm nầy, nhưng Phêrô xem ra như không muốn quan tâm đến nó, cả khi Chúa Giêsu công khai lên án những hành động vội vàng mà tính bồng bột nhất thời đã thôi thúc Phêrô hành xử như vậy. Chẳng hạn như liền sau khi Chúa loan báo về cuộc khổ nạn mà Ngài sẽ chịu tại Giêrusalem, thì Phêrô vội vàng lên tiếng can ngăn Chúa và bị Chúa trách ngay: Satan, hãy lui ra khỏi ta. Con không suy nghĩ theo Thiên Chúa mà theo cái nhìn phàm trần. Nơi vườn cây dầu, Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh Phêrô và các tông đồ khác, hãy cầu nguyện, hãy coi chừng đề phòng, "vì tinh thần thì nhanh nhẹn, nhưng xác thịt lại nặng nề". "Phêrô, con không thức tỉnh với Thầy được một giờ sao ?" Chúa yêu cầu hãy cầu nguyện như để được trang bị chống lại những nguy hiểm sắp xảy ra, nhưng Phêrô vẫn không thay đổi, vẩn là con người của giây phút nhất thời. Phêrô là con người nhiệt thành, quảng đại, không ai chối điều nầy; Phêrô có tính thẳng thắn, không vụ lợi cho riêng mình, và là con người can đảm. Nhưng tất cả những đức tính đó xem ra như đến từ một bản chất bồng bột bộc trực của Phêrô. Phêrô không phải là con người của suy tính lâu trước khi hành động. Ông là con người của phản ứng ngay tức khắc. Tính bồng bột bộc trực nầy là yếu điểm của Phêrô, vì ông không tính toán xem lúc nào cần hành động liền ngay, lúc nào không. Ông hành động mà không suy xét, và khi sơ sót lầm lỗi thì đi từ sự bất cẩn nầy đến sự bất cẩn khác. Phêrô làm hại cho chính mình, không kiểm soát được chính mình, và sa ngã trong dịp tội ."

"Chúng ta cũng có thể hành động như Phêrô vậy. Những cám dỗ luôn tấn công vào những điểm yếu của chúng ta. Và nếu chúng ta không chăm lo bảo vệ điểm yếu nầy, thì chắc chắn cám dỗ sẽ hạ ngã chúng ta, mặc cho tất cả những điều tốt chúng ta có và cả sự thánh thiện nữa. Nếu điểm yếu bị ngã quỵ chịu thua, thì hành động tội lỗi xem ra như tự động theo liền, và chúng ta xem ra như không còn sức lực kháng cự lại nữa, bởi vì chính chúng ta là thủ phạm làm cho mình trở thành bất lực ."

Ðó là những phân tích của linh mục Georges Chevrot, khi mô tả tinh thần của Phêrô trong đêm chối Chúa. Phêrô lúc đó đã vào bên trong sân nhà Thượng Tế Caipha, và xem ra như không có vấn đề gì. Và câu hỏi của người đầy tớ đối với Phêrô lúc đó, cũng là một câu hỏi tự nhiên theo lệ của hoàn cảnh lúc đó, khi thấy một người lạ hiện diện trong sân lúc đêm khuya như vậy. Khởi đầu nguời đầy tớ chỉ hỏi Phêrô xem Ông có phải là môn đệ của Người bị bắt kia không. Và Phêrô đã trả lời vội vàng, như không quan tâm gì: Tôi à? Không đâu. Phải chăng trong tâm tư, Phêrô chỉ muốn trả lời nhanh cho qua lúc, mà không có chủ ý chối bỏ Thầy mình? Giả như Phêrô trả lời người đầy tớ cách khác, chẳng hạn như Phêrô nhìn nhận mình là đồ đệ của nguời bị bắt, thì có lẽ cũng không đến nỗi nào. Có lẽ người đầy tớ kia chỉ khuyên Phêrô nên ý tứ, đừng quấy rầy lôi thôi. Thật ra Phêrô chỉ muốn vào trong sân để nghe ngóng sự việc, chớ đâu phải để làm lớn chuyện. Nhưng Pherô đã vội trả lời "Không". Câu trả lời mở ra một hướng mới. Buông lao thì phải theo lao. Ðịnh luật tâm lý lôi cuốn Phêrô theo chiều mà ông đã nhẹ dạ đi vào. Phêrô trở thành như kẻ nô lệ cho hành động vội vàng thiếu suy nghĩ của mình lúc đầu. Lời tra hỏi thứ hai cũng không có tính cách nghiêm trọng cho lắm. Một người đầy tớ chỉ đưa ra một nhận định vô thưởng vô phạt: Oâng nầy cũng theo Ông Giêsu Nazareth đấy. Phêrô lại chối, vì ông đã chối trước đó rồi, bây giờ không trở lui lại được nữa. Và lời chối của Phêrô trở nên trầm trọng hơn. Phúc âm ghi là Phêrô đã thề mà chối với người tớ gái rằng: "nầy cô, tôi không biết người ấy". Phêrô thật sự chỉ muốn dấu thân thế của mình thôi. Nhưng đối với Chúa Giêsu, dựa theo quy luật: ai không ở với ta là nghịch với Ta, thì Phêrô đã đặt mình trong nguy hiểm chối bỏ Chúa rồi. Phêrô đã hòa mình với những người trong sân, trao đổi trò truyện với họ, như thể không có gì xảy ra cả. Nhưng giọng nói của Phêrô làm cho những người ở đó thêm cương quyết hơn. Họ nhận xét: "Ông là người Galilê. Giọng nói của Ông cho biết như vậy ." Và lần nầy, Phêrô lại thề thốt mạnh bạo hơn nữa. "Tôi không biết người ấy". Ðây là lần thứ ba. Phêrô đi từ lời nói tránh né nhẹ nhàng, đến lời nói chối bỏ rõ ràng. Gà liền gáy. Chỉ lúc đó Phêrô mới tỉnh ngộ và hối hận. Ông đã chối Chúa, mà thật ra không đáng làm như vậy.

Chỉ một ngón tay bị kẹt trong răng cưa, thì cả bàn tay sẽ bị cuốn đưa vào trong đó. Không thể nào có thái độ nửa chừng với tội lỗi. Chỉ một chút bất cẩn, Phêrô đã chối bỏ Chúa, chối bỏ chính mình. Nếu không làm chủ được dục vọng, đam mê, thì dục vọng và đam mê sẽ làm chủ chúng ta. Nếu chúng ta chiến đấu chống lại cám dỗ, thì Chúa sẽ ban ơn tăng cường giúp ta vượt qua. Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ cầu nguyện: Xin Chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Nhưng xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ.

Chúng ta có lưu tâm đến điều nầy hay không? Chúng ta có cầu nguyện thật sự và đề phòng cẩn thận trước những cám dỗ hay không? Hãy canh phòng cả những bất cẩn nhỏ, khi chúng ta còn thời giờ và còn có thể làm như vậy. Những bất cẩn chưa phải là tội. Những nương chiều nhỏ chưa phải là tội nặng. Nhưng lại rất nguy hiểm, vì nó làm ta không còn đề phòng nữa. Ðọc lại bài học chối Chúa của Phêrô, chúng ta hãy cẩn thận đề phòng và hãy khiêm tốn, không nên ỉ lại, cả khi chúng ta là những kẻ đã dày công tu luyện, đã có thành tích nhiều năm sống đạo, nhiều nhân đức. Bao lâu chúng ta còn sợ tội, còn nhìn nhận là mình còn có thể phạm tội, thì bấy lâu chúng ta còn có thể đề phòng và tránh được tội. Nguy hiểm nhất là khi chúng ta không còn ý thức về tội, không còn nghĩ là mình có thể phạm tội nữa. Nguy hiểm trầm trọng nhất của con người thời nay là không còn ý thức về tội lỗi nữa, là giải thích hành động tội lỗi như một khuyết điểm tâm lý.

 

XX.
Phêrô ăn năn trở lại

Thiên Chúa nhân từ không bao giờ bỏ rơi người tội lỗi. Ngài luôn luôn tác động với ơn thánh của Ngài, cảnh tỉnh người tội lỗi khi cám dỗ bắt đầu, nâng họ dậy khi đã sa ngã. Nhưng tác động nầy đôi khi không được người tội lỗi cảm nhận đáp trả. Thánh Sử Marcô, đồ đệ của Phêrô, là người duy nhất ghi lại nơi phúc âm của ngài chi tiết gà gáy hai lần. Tiếng gà gáy được vài nhà chú giải xem như là phương tiện Chúa dùng để thức tỉnh Phêrô đang dần dần sa vào chước cám dỗ. Nhưng Phêrô đã bỏ lỡ dịp tiếng gà gáy lần thứ nhất, đã quên lời báo trước của Chúa: "Hãy đề phòng, con sẽ chối Thầy trước khi gà gáy". Tiếng gà gáy đã vang lên, Phêrô đang đi vào con đường nguy hiểm, đã bắt đầu chối Chúa rồi, nhưng lúc đó Phêrô đã không nghe.

Chúng ta cũng có thể mang tâm trạng giống như Phêrô: khi bị thu hút bởi cơn cám dỗ, chúng ta có thể tự biện hộ cho mình, tự cho phép mình đi vào chước cám dỗ bằng những lý do nầy nọ. Tiếng gà gáy lần thứ hai. Phêrô đã chối Chúa ba lần, và lần thứ ba xem ra như trầm trọng hơn, vì phúc âm ghi là: Phêrô thề mạnh miệng và chối Chúa. Phêrô thực sự đã chối Chúa. Không còn có thể mập mờ tránh né được nữa. Nhưng Chúa đã không bỏ Phêrô trong hoàn cảnh. Ngoài tiếng gà gáy để cảnh tỉnh, Chúa còn đích thân quay lại nhìn Phêrô. Dù phúc âm không có ghi, nhưng ta cũng hiểu chắc chắn là Phêrô đã bắt gặp được cái nhìn nầy của Chúa. Cái nhìn nói lên thật nhiều ý. Cái nhìn thật là quan trọng. Phêrô được thức tỉnh, hiểu và cảm nghiệm được tình yêu Chúa vẫn còn đó và vẫn luôn sẵn sàng tha thứ và tha thiết mong Phêrô quay trở lại. "Phêrô nhớ lại điều Chúa đã nói trước với Ông. Phêrô ra ngoài ăn năn khóc lóc". Trước đây Ông đã càng khinh thường lời cảnh tỉnh của Chúa, thì giờ đây ông càng đau đớn ăn năn, một sự đau đớn không đi đến tuyệt vọng, như đã xảy ra với Giuđa, nhưng thức tỉnh Phêrô và đưa ông trở về. Cái nhìn của Chúa đã giúp ông. Phêrô đã bắt gặp lại cái nhìn của Chúa. Ðây là giây phút quan trọng nhất. Conversus Jesus, respexit Petrum. Bị những người lính hành hạ lôi đi, nhưng Chúa Giêsu còn có thể quay lại và nhìn Phêrô. Chi tiết nói "Chúa quay lại" cho ta hiểu đây là một hành động cố ý của Chúa. Phêrô còn luôn hiện diện trong tâm tư của Chúa. Chúa muốn người tội lỗi ăn năn trở lại, để được sống. Ơn Chúa còn tác động giúp người tội lỗi quay trở lại.

Chính cái nhìn của Chúa đã quyết định cho ơn gọi và sứ mạng của Phêrô, lúc Phêrô gặp Chúa lần đầu tiên. Giờ đây cũng một cái nhìn nầy của Chúa, và Phêrô đã hiểu: Chúa còn luôn trung thành trong lời mời gọi, và Phêrô không thể nào vịnh vào sự lỗi phạm của mình mà bỏ đi ơn gọi, trả sứ mạng lại cho Chúa. "Xin Thầy hãy xa con, vì con là kẻ tội lỗi", Phêrô đã có lần nói với Chúa Giêsu như vậy. Nhưng lúc đó Chúa đã không xa Phêrô, mà lại mạnh mẽ quyết định: Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho con trở nên kẻ lưới cá con người.

Cái nhìn của Chúa đã cứu Phêrô khỏi đi vào con đường tuyệt vọng, buông xuôi, nhưng tin tưởng vào tình thương Chúa, khiêm tốn nhìn nhận lỗi phạm, vừa đồng thời can đảm quay trở lại, nhất quyết trở nên tốt hơn. Tự phụ và ngã lòng buông xuôi là hai thái cực chúng ta cần đề phòng. Cả hai đều phát sinh từ một nền tảng duy nhất, là tự ái, là yêu cái tôi thái quá, là chỉ nghĩ đến cái tôi, là sống đóng kín trong cái tôi mà thôi.

Cái nhìn của Chúa là cái nhìn của một vì Thiên Chúa, cái nhìn có sức tái tạo con người, cái nhìn giải phóng con người ra khỏi cái tôi, ra khỏi tự ái.

 

XXI.
Cùng với Giáo Hội

Biến cố Chúa Thánh Thần Hiện Xuống biến đổi hoàn toàn các tông đồ nói chung và đặc biệt là Phêrô. Từ đó, chúng ta sẽ thấy Phêrô đứng ra chu toàn vai trò làm "Ðá Tảng", làm thủ lãnh, nhận lấy trách nhiệm Chúa đã trao phó cho. Nhưng sự biến đổi của ngày lễ Ngũ Tuần nầy không phải là một đột xuất. Kể từ giây phút Chúa Giêsu phục sinh, chúng ta thấy Phêrô đã được các tông đồ nhìn nhận như là một uy tín, một điểm đối chiếu. Những giọt nước mắt sau giây phút lầm lỗi chối Chúa đã thanh luyện con người Phêrô, đã biến đổi tình thương tự phụ, bồng bột nhất thời, trở thành "đầm ấm hơn", sâu xa hơn, có suy nghĩ nhiều hơn, trưởng thành hơn. Chúa Giêsu đã bảo đảm là Ngài luôn cầu nguyện cho Phêrô, để đức tin của Phêrô, sau lúc sa ngã, được củng cố, được trưởng thành và trở thành như là điểm tựa cho đức tin của các tông đồ, của toàn thể giáo hội Chúa. "Trên Ðá Tảng Phêrô, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy ."

Khi hai môn đệ bỏ về làng Eâmaus vào sáng Phục Sinh, quay trở lại Giêrusalem, trở về nơi các tông đồ đang tụ họp lúc đó để đưa tin là Chúa đã hiện ra cho họ, thì họ được nghe lời xác nhận: quả thật, Chúa đã sống lại thật và đã hiện ra cho Phêrô. Apparuit Simoni. Những lời ngắn ngủi nầy có ý nghĩa sâu xa hơn chúng ta nghĩ. Tại sao các tông đồ nhắc đến chi tiết: Chúa đã hiện ra cho Phêrô, như là một đáp trả cho lời chứng của hai môn đệ đã nhìn ra Chúa trên đường về làng Eâmaus? Chúng ta có thể nói: chứng tá của Phêrô được mặc lấy tầm quan trọng duy nhất, được dùng làm như là điểm tựa bảo đảm cho đức tin của Giáo Hội Chúa. Chi tiết "Chúa Phục Sinh hiện ra cho Phêrô" được cộng đoàn giáo hội sơ khai quý trọng. Bản văn nơi thơ I Côrintô chương 15, câu 1-7, là một trong những bản tường thuật cổ nhất về lời tuyên xưng đức tin vào Chúa Phục sinh của cộng đoàn đầu tiên các môn đệ Chúa Giêsu. Lời tuyên xưng đó là: "Chúa Kitô, theo như lời Kinh Thánh loan báo trước, đã chết cho tội lỗi của chúng ta; Ngài được an táng trong mộ, và đã phục sinh vào ngày thứ ba ." Rồi sau đó, bản văn nhắc đến những lần Chúa Phục sinh hiện ra, đặc biệt là lần Chúa phục sinh hiện ra cho cộng đoàn 500 người. Và cộng đoàn đầu tiên các môn đệ đó đã nhắc đến chi tiết: Chúa đã được Phêrô nhìn thấy trước, nghĩa là đã hiện ra cho Phêrô trước, rồi mới đến các tông đồ khác. Visus est Cephas. Chứng Tá của Phêrô là uy tín bảo đảm cho đức tin của toàn thể cộng đồng giáo hội Chúa.

Ðây cũng là điểm mà thiên thần Chúa ra lệnh cho hai người nữ đến mộ Chúa Giêsu vào sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần: Hãy về nói với Phêrô và các môn đệ khác biết ... Vai trò của Phêrô luôn được lưu ý đến trước tiên, trước những tông đồ và môn đệ khác.

"Chúa đã hiện ra cho Simon". Chúng ta không biết những chi tiết liên quan đến việc Chúa hiện ra cho Phêrô như thế nào. Nhưng sự kiện và cách thức mà sự kiện nầy được nhắc đến trong cộng đoàn đầu tiên những môn đệ của Chúa Giêsu, là một khích lệ, một bảo đảm cho cả chúng ta ngày nay nữa.

Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được sống trong sự hiệp thông giáo hội, một giáo hội đã được Chúa xây trên Ðá Tảng Phêrô, và trao cho Phêrô chăm sóc. Tác vụ của Phêrô luôn tiếp tục trong lịch sử ngàn năm của Giáo Hội, trong lời cầu nguyện của Chúa Giêsu và dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, để tác vụ của Phêrô không bao giờ bị lung lai hay sai lầm. Ðó là điều kỳ diệu Chúa thực hiện. Chúng ta hãy hân hoan vui mừng và tin tưởng phó thác vào Chúa.

 

XXII.
Ðiều kiện thiết yếu
để làm tông đồ Chúa

Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh và Phêrô nơi bờ biển hồ Tibêria mang một ý nghĩa thật quan trọng trong cuộc đời của Phêrô cũng như trong lịch sử Giáo Hội Chúa trên trần gian nầy. Chúng ta cần đọc lại trang phúc âm theo thánh Gioan, chương 21, câu 1 cho đến câu 17, như sau:

Sau đó, Chúa Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở biển hồ Tibêria. Chúa tỏ mình ra như thế nầy. Ông Simon Phêrô, ông Toma gọi là Ðiđymô, ông Nathanael nguời Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê, và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông Simon Phêrô nói với các ông: Tôi đi đánh cá đây. Các ông đáp: Chúng tôi cùng đi với anh. Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy, họ không bắt được gì cả.

Khi trời đã sáng, Chúa Giêsư đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó là Chúa Giêsu. Nguời nói với các ông: Nầy, các người có gì ăn không? Các ông trả lời: Thưa không. Nguời bảo các ông: Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá. Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. Người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến nói với Phêrô: Chúa đó. Vừa nghe nói: Chúa đó, Ông Simon Phêrô liền vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ, kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách khoảng gần một trăm thước.

Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. Chúa Giêsu bảo các ông: hãy đem ít cá mới bắt được tới đây. Ông Simon Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. Chúa Giêsu nói: anh em đến mà ăn. Không ai trong các môn đệ dám hỏi: Ông là ai?, vì các ông biết rằng đó là Chúa. Chúa Giêsu đến, cầm lấy bánh và trao cho các ông; rồi cá, Nguời cũng làm như vậy. Ðó là lần thứ ba Chúa Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi sống lại từ cỏi chết.

Khi các môn đệ đã ăn xong, Chúa Giêsu hỏi ông Simon Phêrô: Nầy Simon, con ông Gioan, con có mến Thầy hơn các anh em nầy không? Ông đáp: Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy. Chúa Giêsu nói với ông: Hãy chăm sóc chiên con của Thầy. Nguời lại hỏi: Nầy Simon, con ông Gioan, con có mến Thầy không? Ông đáp: Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy. Chúa nói: Hãy chăn dắt chiên của Thầy. Chúa hỏi lần thứ ba: Nầy Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không? Ông Phêrô buồn, vì Chúa hỏi tới ba lần: Con có yêu mến Thầy không? Ông đáp: Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự. Thầy biết con yêu mến Thầy. Chúa Giêsu lại bảo: Hãy chăm sóc chiên của Thầy.

Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Phêrô theo tường thuật của Gioan, còn một phần nữa, là phần nói đến vận mạng tương lai của Phêrô trên con đường theo Chúa. Chúng ta sẽ suy niệm trong bài kế tiếp.

Trong giây phút nầy, chúng ta hãy chú ý đến ba câu hỏi của Chúa cho Phêrô và ba câu trả lời của Phêrô: Thưa Thầy có. Thưa Thầy có. Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự. Trong lần đáp thứ ba, Phêrô không đáp một cách quả quyết như tự sức và tự ý ông nữa, nhưng Phêrô nhắc đến chính sự hiểu biết của Chúa về con người mình mà nói: Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự. Thầy biết con mến Thầy.

Chúa biết Phêrô đã chối Chúa, nhưng Chúa cũng biết rõ Phêrô yêu mến Chúa như thế nào. Như một người lỗi phạm đến Chúa và đã được Chúa tha thứ, Phêrô giờ đây tỏ ra khiêm tốn hơn: thưa thầy có, thưa thầy, thầy biết mọi sự, thầy biết rõ con yêu mến Thầy. Ðây là lời Phêrô tuyên xưng công khai trước mặt các môn đệ khác cùng theo Ông đi đánh cá hôm đó -- cả nhóm lúc đó có 7 người -- Phêrô khiêm tốn tuyên xưng công khai tình yêu và lòng trung thành của ông đối với Chúa. Phêrô không quên mình đã lỗi phạm, đã chối Chúa ba lần. Nhưng Phêrô cũng đã cảm nghiệm sự tha thứ của Chúa từ lâu trước rồi, từ cái nhìn của Chúa trong đêm Chúa bị điệu ra xử nơi nhà thượng tế Caipha, và nhất là từ biến cố Chúa Phục Sinh đã hiện ra cho Phêrô trước tiên. Chúng ta không biết chi tiết và nội dung của lần hiện ra nầy, nhưng chắc chắn là có tầm quan trọng đặc biệt, bởi vì biến cố đã được cộng đoàn môn đệ nhắc đến, như là một điểm quy chiếu, một bảo đảm quan trọng cho đức tin vào Chúa Phục Sinh. Phải, Phêrô đã cảm nghiệm được Chúa tha thứ rồi, nên Ông không còn mặc cảm gì với Chúa nữa, mặc dù việc Chúa hỏi ba lần câu: Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không? đã làm Phêrô buồn, vì làm cho Phêrô nhớ đến việc ông đã chối Chúa ba lần. Nhưng việc Chúa hỏi ba lần còn có ý nghĩa khác: theo thói quen của những người thời Chúa Giêsu, lời cam kết quan trọng và chính thức là lời cam kết được lặp lại ba lần. Chúa biết rõ Phêrô yêu mến Chúa như thế nào rồi. Chúa không muốn làm Phêrô mắc cở, hay có mặc cảm trước anh em. Chúa không hỏi Phêrô ba lần về tình yêu của Ông, như thể Chúa nghi ngờ ông, hoặc muốn "trả thù", làm cho Phêrô xấu hổ trước các tông đồ khác. Ðây là giây phút quan trọng và công khai, Chúa trao quyền chăn dắt đoàn chiên Chúa, chiên con, chiên Mẹ, tất cả mọi thành phần của đoàn chiên, trước sự chứng kiến của các môn đệ khác: Hãy chăn dắt các chiên của Thầy. Ðể chu toàn trọn vẹn tác vụ nầy, chỉ có một điều kiện duy nhất cần thiết mà thôi là yêu mến Chúa và trung thành với tình yêu nầy. Chúa muốn một cam kết trọn vẹn, công khai của Phêrô, trước khi lãnh lấy một trách vụ quan trọng, công khai, trước mặt cộng đoàn chứng nhân.

 

XXIII.
Những ràng buộc giải thoát

Hôm nay, chúng ta suy niệm phần kết của cuộc đối thoại cuối cùng giữa Chúa Giêsu và thánh tông đồ Phêrô, như được ghi lại nơi Phúc âm theo thánh Gioan, chương 21 câu 1 đến câu 22. Sau khi đã công khai trao trách vụ chăm sóc đoàn chiên cho Phêrô, Chúa Giêsu tiếp tục cuộc đối thoại như sau:

Thật, Thầy bảo thật cho con biết, lúc còn trẻ, con tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tùy ý. Nhưng khi đã về già, con sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng, và dẫn con đến nơi con chẳng muốn.
Chúa nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi Chúa bảo Phêrô: Hãy theo Thầy.
Ông Phêrô quay lại, thì thấy người môn đệ Chúa Giêsu thương mến đi theo sau; ông nầy là người đã nghiêng mình vào ngực Chúa Giêsu trong bửa ăn tối và hỏi: thưa thầy, ai là kẻ nộp Thầy?. Vậy khi thấy người đó, ông Phêrô nói với Chúa Giêsu: thưa Thầy, còn người nầy thì sao? Chúa Giêsu đáp: Giả như Thầy muốn cho người đó còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến con? Phần con, hãy theo Thầy.

Một điểm đáng chúng ta chú ý là Chúa Giêsu Phục Sinh đã hướng nội dung cuộc đối thoại giữa Ngài và Phêrô về tương lai. Xem ra như Chúa đã quên quá khứ lỗi lầm của các tông đồ, và nhất là của Phêrô. Mệnh lệnh căn bản Chúa nhắc lại cho tương lai của Phêrô là: "Phần con, con hãy theo Thầy". So sánh với lời mời gọi lần thứ nhất: "Hãy theo thầy" cũng tại địa điểm nầy, nơi bờ biển hồ Tibêrias, và sau cùng một dấu lạ là mẻ lưới bắt được đầy cá theo lệnh Chúa truyền, thì lời gọi lần nầy: "Phần con, con hãy theo Thầy", mang một dư âm thân tình hơn, vừa đồng thời đậm đà ý nghĩa hơn, sau tất cả những gì đã xảy ra trong thời gian qua, nhất là trong biến cố Thương Khó và Phục Sinh của Chúa. Hơn ai hết, Phêrô hiểu rõ thế nào là Theo Chúa với tất cả những ràng buộc của nó. Nhưng đây là những ràng buộc làm cho con người được tự do, những ràng buộc để giải phóng con người khỏi làm nô lệ cho những tật xấu của mình. Tác vụ "lưới cá nguời ta" ( Hãy theo Thầy, từ nay con sẽ nên kẻ lưới cá người ta), hay trong một ngôn ngữ khác, tác vụ "chăn dẫn các con chiên của Chúa" là một tác vụ phục vụ cho sự cứu rỗi, cho sự giải phóng con người khỏi làm nô lệ cho sự dữ và tội lỗi, là một tác vụ phục vụ cho tình thương, sự thật, sự sống, sự bình an mà Chúa Giêsu Phục Sinh đã thực hiện và muốn dùng các ngài để trao ban cho mọi người: Bình an cho chúng con. Ðể thực hiện tác vụ nầy trọn vẹn, như Chúa Giêsu Thầy mình, thì Phêrô sẽ phải đi cùng một con đường, chia sẻ cùng một vận mệnh của Chúa. Ðó là con đường thập giá. Trong một ngôn ngữ tượng hình dành riêng cho người trong cuộc mới hiểu, Chúa Giêsu Phục Sinh nhắc lại cho Phêrô, điều mà Chúa đã nói trước: Ai muốn Theo Ta, thì hãy từ bỏ mình, vác lấy thập giá hằng ngày mà theo Ta. Giờ đây trong ngôn ngữ khác, nhưng cùng một nội dung, Chúa Giêsu nhắc cho Phêrô: Khi về già, con sẽ dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn con đến nơi con không muốn. Phêrô hiểu Chúa muốn nói gì. Có nguời đồ đệ gần đó, như người trong cuộc, cũng hiểu Chúa muốn nói gì với Phêrô; và như là một chứng nhân của biến cố, người đồ đệ đó đã ghi thêm lời giải thích cho những kẻ đến sau: Chúa nói vậy có ý ám chỉ Ông Phêrô sẽ phải chết cách nào, để tôn vinh Thiên Chúa.

Sự giải phóng thật làm cho con người được tự do thật, sự giải phóng đó đã được thực hiện qua Cái Chết Trên Thập Giá. Chúa Phục Sinh đang đối thoại với Phêrô là bằng chứng hiển nhiên trước mắt cho sự thật nầy. Phêrô được mời gọi sống sự thật nầy, như Chúa đã sống: Phần con, hãy theo Thầy.

Và như chúng ta đã biết, Phêrô đã không lo sợ trốn chạy nữa.